HDBank
Mobifone

Thế hệ toàn diện

Thứ Hai, 26/05/2025, 15:04

LTS: "Bối cảnh mới của đất nước đang đặt ra yêu cầu đào tạo lớp người mới phát triển toàn diện, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, sức khỏe (cả thể chất và tinh thần) tương xứng với việc thực hiện hai mục tiêu 100 năm của đất nước" chính là trọng tâm trong kết luận của Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Chính phủ và các ban, bộ, ngành về tình hình thực hiện các nghị quyết của Trung ương về giáo dục và đào tạo. Từ kết luận này, lại nhân dịp Quốc tế thiếu nhi, chúng ta hãy thử suy nghĩ "Để tạo lớp người mới toàn diện ấy, thực tế cần những gì?".

Trẻ em và quyền được chơi

Thế hệ chúng tôi bị ám ảnh với một câu nói có sức mạnh vùi dập bất cứ ước mơ nào mới manh nha hình thành: "Làm cái XYZ ấy thì có mài ra mà ăn được không?"

Thế hệ toàn diện -2

Mọi quyết định lớn về giáo dục trong cuộc đời chúng tôi đều xoay quanh câu hỏi trên, từ việc chọn trường chuyên hay trường "bình thường" vào cấp 2 và cấp 3, cho đến việc chọn thi vào trường đại học nào. Các môn luyện thi như Toán, Văn, Lý, Hóa được gọi là "môn chính", còn các môn như Nhạc, Hoạ sẽ là các "môn phụ". Phân chia rất rạch ròi.

Với một thế hệ lớn lên trong giai đoạn hậu chiến như chúng tôi, mọi lựa chọn giáo dục đều xoay quanh một câu hỏi: liệu cái này, cái kia có ra tiền được không? Có giúp ích gì cho việc tìm kiếm một sự nghiệp hay xa hơn là địa vị trong tương lai hay không.

Tất nhiên là chúng ta không ở đây để phán xét xem các quan niệm quá khứ là đúng hay sai, vì tư duy cạnh tranh như vậy đã giúp đất nước chúng ta trải qua một giai đoạn phát triển thần kỳ trong 30-40 năm qua, với những con người kỷ luật, mạnh mẽ và có ý chí vươn lên. Ai cũng cố gắng học hành để "mài ra ăn" được trong tương lai, và thực tế là đa số chúng ta đã làm được.

 Đấy là kết quả của một nền giáo dục tập trung, đề cao kỷ luật và khuôn phép, với một chương trình học rất "nặng" và ít khoảnh khắc thư giãn. Nó phù hợp với một giai đoạn phát triển quan trọng của đất nước, nếu nhìn theo góc độ thực dụng: những đứa trẻ như chúng tôi sẽ là nguồn nhân lực tốt cho Việt Nam trong khoảng 20-30 năm sau đó.

Tôi tạm gọi đấy là một giai đoạn mà giáo dục thiếu vắng "quyền được chơi", thậm chí là kỳ thị việc trẻ em chơi trong trường học. Thậm chí chúng ta còn có "bài tập về nhà" tức là triệt tiêu nốt cơ hội được chơi khi ở ngoài trường học.

Đấy là thực tế không chỉ diễn ra ở Việt Nam. Trong cuốn sách “Children at Play: An American History” (2007), Howard Chudacoff gọi nửa đầu thế kỷ 20 là "thời hoàng kim" của việc trẻ em có quyền được chơi.

Đến khoảng năm 1900, nhu cầu lao động trẻ em giảm, nên trẻ có nhiều thời gian rảnh. Nhưng từ khoảng năm 1960 hoặc sớm hơn, người lớn bắt đầu xâm phạm tự do đó bằng cách tăng thời gian trẻ phải dành cho bài tập ở trường, và quan trọng hơn, giảm tự do chơi đùa độc lập của trẻ, ngay cả khi chúng không ở trường hay làm bài tập.

Cùng khoảng thời gian mà cơ hội chơi đùa của trẻ giảm, các rối loạn tâm lý ở trẻ em tăng lên. Các bảng câu hỏi lâm sàng đánh giá lo âu và trầm cảm đã được áp dụng không đổi cho các nhóm học sinh bình thường ở Mỹ từ những năm 1950.

Phân tích kết quả cho thấy sự gia tăng liên tục, gần như tuyến tính, về lo âu và trầm cảm ở thanh thiếu niên qua các thập kỷ, đến mức tỷ lệ rối loạn lo âu toàn thể và trầm cảm nặng hiện nay cao gấp năm đến tám lần so với những năm 1950. Trong cùng kỳ, tỷ lệ tự tử ở thanh niên từ 15 đến 24 tuổi tăng hơn gấp đôi, và ở trẻ dưới 15 tuổi tăng gấp bốn lần.

Tại Việt Nam, Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), năm 2014, tỉ lệ các rối loạn tâm thần phổ biến ở Việt Nam là 14,2%, trong đó 2,45% là các rối loạn trầm cảm. Báo cáo của Tổ chức Phát triển quốc tế (ODI) ước tính khoảng 3 triệu trẻ em (từ 12 tuổi trở lên) cần dịch vụ sức khỏe tâm thần, với nhu cầu biến đổi đáng kể giữa các tỉnh.

Bạn có thể cho rằng đây chẳng qua là thực tế của đời sống hiện đại, chứ một đất nước muốn tăng trưởng thì áp lực là chuyện khó tránh khỏi. Nhưng hãy thử xem xét từ một góc độ thực dụng hơn, rằng liệu chúng ta cần những nhân lực tương lai này phải có những phẩm chất gì cho thời đại đầy biến động hiện tại?

Manh mối đến từ kết quả của bài kiểm tra Torrance về tư duy sáng tạo (viết tắt tiếng Anh: TTCT, một dạng bài test kinh điển về tư duy sáng tạo) - thu thập từ các mẫu học sinh Mỹ bình thường từ mẫu giáo đến lớp 12 (17-18 tuổi) qua vài thập kỷ.

Kyung-Hee Kim, một nhà tâm lý giáo dục tại Đại học William và Mary ở Virginia, đã phân tích điểm số và phát hiện ra rằng chúng bắt đầu giảm từ năm 1984 hoặc ngay sau đó, và tiếp tục giảm từ đó. Trong bài viết "Khủng hoảng sáng tạo" của mình trên Creativity Research Journal năm 2011, Kim mổ xẻ dữ liệu và viết rằng "trẻ em trở nên ít biểu cảm cảm xúc, ít năng lượng, ít nói và diễn đạt bằng lời, ít hài hước, ít tưởng tượng, ít độc đáo, ít sôi nổi và đam mê, ít nhạy bén, ít khả năng liên kết những thứ dường như không liên quan, ít tổng hợp, và ít có khả năng nhìn từ góc độ khác".

Nói cách khác, hơn 85% trẻ em năm 2008 có điểm thấp hơn điểm trung bình của trẻ năm 1984. Bạn không thể dạy sáng tạo; chỉ có thể để nó nở hoa. Trẻ nhỏ, trước khi vào trường học, sở hữu sự sáng tạo một cách tự nhiên.

Những nhà đổi mới vĩ đại nhất, những người chúng ta gọi là thiên tài, là những người giữ được khả năng trẻ thơ đó và xây dựng nó suốt tuổi trưởng thành. Albert Einstein, người dường như ghét trường học, gọi những thành tựu của mình trong vật lý lý thuyết và toán học là "trò chơi kết hợp". Nhiều nghiên cứu cho thấy con người sáng tạo nhất khi mang tinh thần chơi đùa, khi họ thấy mình làm việc chỉ vì vui.

Khi Tổng Bí thư Tô Lâm cho rằng biết chơi ít nhất một loại nhạc cụ là thước đo của một nền giáo dục phổ thông thành công và nâng tầm nó lên một chiến lược quốc gia, tôi nghĩ rằng ông không nói chơi. Trong kỷ nguyên của những biến động khó lường trước mắt, thì sự sáng tạo và đổi mới là những phẩm chất không thể thiếu của các thế hệ tương lai. Mà sáng tạo là thứ thường chỉ nảy sinh khi trẻ em có nhiều quyền được chơi.

Phạm An

Giáo dục trong kỷ nguyên AI

Trí tuệ cảm xúc là thành trì cuối cùng của một lao động người trước kỷ nguyên mà những cỗ máy đã vượt qua họ ở rất nhiều khía cạnh. Giáo dục cần đưa ra câu trả lời cho đòi hỏi đó.

Thế hệ toàn diện -0

Tháng trước, tôi có một cuộc thảo luận về cảm xúc với nhà khoa học AI Nguyễn Hồng Phúc và họa sĩ Xuân Lan. Hồng Phúc giải thích cho tôi về khả năng của AI và tiềm năng của chúng: anh khẳng định rằng với các tác vụ liên quan đến logic, AI sẽ sớm vượt qua con người. Tôi không nghi ngờ gì điều này. "Thứ duy nhất AI chưa làm được, là "hiểu" một vấn đề theo cách của con người, liên hệ nó với thế giới con người đang sống", Phúc nói.

Cách giải thích này có vẻ khá trừu tượng, nên tôi tìm đến họa sĩ Xuân Lan, người làm một công việc đang bị đe dọa bởi AI: vẽ tranh minh họa. Tôi nhờ cô tìm một bức tranh trong đó "tính người" của cô được thể hiện; hay nói cách khác, một bức tranh mà cô tin rằng làm nên phẩm chất khác biệt của một họa sĩ với AI. Xuân Lan tìm một vài bức, tranh đó có một bức tranh tôi thích nhất: một khung cảnh mái nhà bị ngập trong nước lũ, một người lớn, một em bé và một chú chó đang đứng chờ một chiếc thuyền cứu hộ đi tới. Trên mặt nước, một chú vịt trắng đang bơi.

Xuân Lan đã vẽ một khung cảnh thảm họa, bằng một bút pháp đặc trưng, khiến cho nó giống như một bức tranh trong sáng ta lấy ra từ sách thiếu nhi. Em bé và chú chó, dù đứng trên mái nhà ngập nước, mở đôi mắt to tròn ngóng đợi, như đang chờ mẹ đi chợ về trong một buổi trưa hè. Chú vịt đang rẽ nước bơi, như một khung cảnh làng quê bình yên. Không thể tìm thấy sắc thái bi thương trong tranh đó.

AI chưa "hiểu" điều này. Tôi đem tranh đi thử nghiệm với các mô hình được đánh giá cao nhất hiện nay, AI nhận ra ngay đây là khung cảnh mùa nước lũ. Nhưng ngay lập tức, cùng với việc đối chiếu dữ liệu lớn, nó nhận định rằng bức tranh gợi lên cảm giác u buồn và bi quan (lũ mà, phải buồn chứ, máy nghĩ thế).

Hồng Phúc, người đã dành cả thập kỷ nghiên cứu AI, đồng ý với tôi rằng đó là một bức tranh rất "người". Chỉ có người mới hiểu, và hiểu thấu lý do tại sao họa sĩ lại vẽ mùa nước lũ một cách lạc quan, đầy mỹ cảm và thậm chí lại êm đềm. Đó là một thủ pháp phi lý, nhưng lại rất hợp tình: họa sĩ muốn phủ nhận sự bi thương, truyền cảm hứng về sự lạc quan đầy trong sáng của bạn nhỏ đến khán giả.

Kể lại câu chuyện để nhấn mạnh rằng trí tuệ cảm xúc, khả năng sáng tạo và tư duy phi logic có thể là vũ khí tối hậu của con người, hay là các lao động trẻ nói chung trong kỷ nguyên AI. Có những lĩnh vực mà ta phải sòng phẳng rằng sức cạnh tranh của con người sắp hết. AI làm những công việc thuần logic nhanh hơn, rẻ hơn, chính xác hơn. Ta phải cạnh tranh bằng "tính người" của mình.

Khi Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu về việc dạy các môn nghệ thuật trong nhà trường, tôi nhớ đến câu chuyện này. Một "nền giáo dục toàn diện" trong kỷ nguyên mới không thể bỏ qua việc trau dồi trí tuệ cảm xúc. Nó không còn là một lựa chọn sang trọng của những ngôi trường quốc tế, hay được phép gọi bằng mỹ từ "ngoại khóa" như trước kia nữa. Cảm thụ âm nhạc, hội họa hay nghệ thuật nói chung có thể là chìa khóa để những người trẻ bước vào kỷ nguyên AI.

Đó là điều đã bị bỏ qua trong nhiều thập niên, khi năng lực tư duy logic là vũ khí tối thượng để một con người bước vào thị trường lao động. Năm 2004, khi tôi thi vào Đại học Kiến trúc Hà Nội, là lần đầu tiên ngôi trường này có đề tuyển sinh liên quan đến khả năng tự sáng tạo. Trước đó, mặc dù có môn vẽ trong tổ hợp Toán-Lý-Vẽ, nhưng đề bài vẽ cũng là một đề rất nặng tính kỹ thuật (đề cao hiểu biết về giải phẫu, ánh sáng). Và ngay cả khi có đề bài sáng tạo, nó cũng chỉ chiếm một tỷ trọng điểm rất nhỏ trong bài thi của tôi.

Tôi đã đỗ vào trường Kiến trúc, một trong những ngôi trường đòi hỏi tính sáng tạo cao nhất, mà không biết rằng thực ra năng lực sáng tạo của mình đến đâu.

Xuân Lan cho tôi xem một bức tranh khác. "Đây là một người lao động Việt Nam ở Đài Loan anh ạ. Em tự nhận ra chị ấy trên phố". Trong bức tranh là một phụ nữ mặc quần bó chẽn, chân vòng kiềng, đi dép tông, sơn móng chân đỏ, tóc nhuộm vàng, đang nói chuyện điện thoại qua loa ngoài ở bến xe buýt. "Tại sao em nhận ra được đấy là một người Việt Nam?", tôi hỏi. "Em cũng không biết, tự dưng nhìn nhận ra thôi, có lẽ là tại chân vòng kiềng đấy", Xuân Lan cười.

AI có lẽ sẽ còn mất rất lâu, thậm chí không bao giờ hiểu tại sao nhìn từ xa một người ở bến xe buýt cách quê hương mấy nghìn cây số, ta có thể nhận ra một đồng hương. Dữ liệu không đủ. Và sự nhạy cảm vượt qua các ranh giới dữ liệu kiểu ấy, có thể đến thông qua giáo dục.

Đức Hoàng

Cái nôi cho toàn diện

Giáo dục bấy lâu nay vẫn là đề tài gây tranh luận nhiều nhất trong xã hội Việt Nam. Những tranh luận đó cho thấy tinh thần hiếu học của người Việt rất lớn. Nhưng hiếu học không hoàn toàn đồng nghĩa với việc hiểu biết được học cái gì, học như thế nào cho thực sự hiệu quả. Dù sao đi nữa, nước ta cũng từng trải qua một thời gian dài gần hai thế kỷ với vô vàn khó khăn, gian nan nên sự học cũng bị ảnh hưởng quá nhiều. Do đó, nhìn nhận về sự học cũng mới chỉ đang trong quá trình dần hoàn thiện với kỳ vọng thế hệ sau luôn nổi trội hơn thế hệ đi trước.

Thế hệ toàn diện -1

Đã một thời gian quá dài, chúng ta đặt ra mục đích cho sự học gắn chặt với một mục tiêu cuộc sống, tức là học để sau này hành nghề gì, và sống bằng nghề như thế nào. Trong khi đó, chúng ta lại vô tình bỏ quên một mục tiêu lớn hơn nữa, cao cả hơn nữa. Đó là học để hoàn thiện từng con người, góp phần hoàn thiện xã hội, và nâng tầm vóc của dân tộc trong tương quan so sánh với thế giới.

Bởi thế, khi Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh vào mục tiêu tạo ra một lớp người mới toàn diện, mục tiêu ấy đã tạo ra một chiều kích xã hội rất mạnh mẽ với rất nhiều hứng khởi. Và chúng ta bắt đầu bàn luận về chuyện để đạt được mục tiêu ấy thì Việt Nam cần làm gì, cần thay đổi gì. Và để những bàn luận trở nên hữu ích hơn, thiết thực hơn, có lẽ chúng ta cần phải nhìn vào thực tế chúng ta đang có gì.

Khi Tổng Bí thư Tô Lâm đưa ra ví dụ về việc bên cạnh học các kiến thức bắt buộc ở phổ thông, phải làm sao để sau khi tốt nghiệp, mỗi học sinh đều có thể phát huy được một khả năng, thiên khiếu nào đó như chơi được một nhạc cụ chẳng hạn, ít ai trong chúng ta nhận ra rằng hiện tại, trong chương trình giáo dục phổ thông từ bậc tiểu học đã có môn Âm nhạc. Nhưng tại sao các em học sinh phổ thông vẫn kém cỏi về âm nhạc (trừ phi được gia đình cho đi học thêm năng khiếu), thậm chí "mù nhạc"?

Đây chính là câu hỏi đưa mọi thứ trở về với gốc của vấn đề. Giáo dục năng khiếu phổ cập ở các bậc phổ thông của chúng ta quá yếu kém. Những giáo viên hoặc thiếu chuyên môn hoặc thiếu khả năng sư phạm được bố trí dạy trong bối cảnh thiếu thực hành, thiếu thời gian giảng dạy đạt tiêu chuẩn tối thiểu và thiếu luôn cả giáo trình có đủ sức hút đã là "cái nôi" của sự "học mà cuối cùng không học được gì" ấy. Và đó chính là điểm mà ta cần cải cách.

Âm nhạc chỉ là một ví dụ. Con người toàn diện cần được tiếp cận qua giáo dục ở cả nhiều lĩnh vực khác nữa. Và muốn tạo ra những lớp người toàn diện, phải có một cái nôi đào tạo toàn diện trước đã.

Chúng ta chưa thể so sánh với các cường quốc trên thế giới nhưng chúng ta hoàn toàn có thể đặt phép so sánh với các quốc gia có hoàn cảnh khá tương đồng với mình. Hãy nhìn vào điển hình Cuba để từ đó chúng ta rút ra bài học kinh nghiệm cho chính mình. Tại sao trong bối cảnh bị cấm vận kéo dài, vẫn còn thiếu thốn rất nhiều, Cuba lại vẫn có được một nền giáo dục và y tế chất lượng cao đến như thế? Cơ bản, đầu tư cho y tế và giáo dục được nước bạn đưa lên hàng đầu.

Với tỷ lệ 84 bác sĩ/10.000 dân, Cuba hiện là quốc gia có tỷ lệ bác sĩ cao nhất thế giới. Sinh viên trường Y ở Cuba được miễn học phí, được cấp bảo hiểm, được bố trí chỗ ở trong suốt 9-10 năm đào tạo. Để làm được việc đó, Cuba dành 30% ngân sách cho Y tế. Tương tự, với giáo dục, nước bạn dành 23% ngân sách, tương đương khoảng 3 tỷ USD năm 2024. Trong khi đó, Việt Nam dành 20% tổng chi ngân sách là cho giáo dục và chỉ khoảng 3,7% là cho y tế. Trong khi đó, quy mô dân số của chúng ta gần gấp 10 lần và GDP của chúng ta cũng gấp 7-8 lần Cuba.

Điều đáng nói trong tương quan so sánh ở trên là con số thực chi cho y tế. Với hơn 11 triệu dân, Cuba chi gần 4 tỷ USD/ năm cho y tế trong khi khoản chi ấy ở Việt Nam chỉ rơi vào khoảng 2,6 tỷ USD. Đó có phải là lý do vì sao trẻ em Việt Nam rất hiếm khi được khám tổng quát định kỳ, một việc mà ngay cả người lớn cũng không mấy khi làm.

Muốn dạy nhạc, họa… cho học sinh, phải dạy cho các em cả thực hành. Và đã là thực hành thì phải gắn liền với cơ sở vật chất thực hành, sau khi đã có các chuẩn bị đầy đủ, khoa học, chất lượng về khâu giáo trình lẫn giáo viên. Như vậy, đòi hỏi đầu tư là rất lớn, yêu cầu phải có gia tăng ngân sách và quản lý chặt chẽ ngân sách dành cho giáo dục. Không chỉ có vậy, còn phải đi từ cơ bản, tức là đào tạo ra những nhà giáo dục giỏi. Sẽ không thể có một nền giáo dục toàn diện nếu thiếu các nhà giáo dục toàn diện. Từ đó, phải ưu tiên phát triển nghề giáo lên hàng đầu.

Thực trạng đào tạo giảng viên nghệ thuật phổ thông hiện nay đang ở đâu chính là câu hỏi cần nhiều tham gia góp  ý của những chuyên gia có nghề. Theo chia sẻ của một giảng viên Học viện Âm nhạc quốc gia, những sinh viên ngành sư phạm ở đây rất yếu, thậm chí nhiều người chỉ vào học để tìm chỗ trú chân tuổi trẻ. Trong khi đó, chất lượng ở các trường sư phạm nghệ thuật thì còn kém hơn nữa. Với một đội ngũ như thế, tương lai liệu có toàn diện nổi?

Cái nôi cho toàn diện cần phải trở nên toàn diện trước đã. Đó chính là sự toàn diện trong đào tạo, trong chế độ chính sách cho những người làm nghề giáo. Cái gốc tôn sư trọng đạo vốn dĩ vẫn là "bảo bối" cha ông truyền lại và chúng ta không thể chỉ gìn giữ cái gốc ấy bằng lời, hoặc bằng vài hành động vinh danh trong những ngày lễ cụ thể. Nó cần là đời sống hàng ngày. Một khi họ an tâm làm nghề, toàn tâm chuyên chú vào nghề, họ sẽ giúp phát triển một nền giáo dục toàn diện.

Và giáo dục ra một lớp người toàn diện cũng cần cả sự góp sức của gia đình. Một khi cha mẹ của học sinh còn chưa thể vượt qua các khó khăn cụ thể trong đời sống, thậm chí phải nhận mức lương không đủ nuôi bản thân mình, họ có thể giúp cho con mình toàn diện hay không?

Một lớp người toàn diện cũng chính là một lớp người có được sự công bằng hơn thế hệ đi trước. Thế nên, cải cách phải hướng tới công bằng. Nhược bằng không, tương lai sẽ tồn tại nguy cơ chỉ có con nhà giàu, trung lưu thì tiếp cận được với sự toàn diện còn con nhà nghèo thì tiếp tục là một cá thể bất toàn.

Hà Quang Minh

.
.