Từ “bước đi thích hợp” đến động lực quan trọng nhất
Adam Smith, nhà kinh tế học người Scotland từng viết: “Chúng ta không mong đợi bữa ăn ngon của mình từ thiện chí của người bán thịt, người nấu bia hay người làm bánh mì, mà từ việc họ theo đuổi lợi ích của chính họ”.
Những năm 80 của thế kỷ trước, quê tôi mỗi khi có ai đó trong xã làm nhà mới thì chủ nhà sắm sửa các vật dụng cần thiết như tranh, tre, kè, nứa... rồi đến bước quan trọng là đi tìm người làm giúp. Từ thanh niên trai tráng đến các ông, các bà có tuổi nhưng còn sức lao động đều được gia chủ nhờ cậy, bởi mỗi người một việc, đơn giản thì cặp lá, nấu nước pha chè đến làm những việc nặng bưng bê, đào đắp. Cũng bởi không thuê trả bằng tiền hay hiện vật nên người làm giúp sẽ được gia chủ đãi hậu hĩnh ngày 3 bữa cơm, đủ để người giúp làm nhà “ấm cái bụng”.
Tuy nhiên, cách làm giúp theo kiểu tập thể nên bên cạnh những người đến sớm, làm tất bật thì nhiều người sáng tranh thủ làm việc khác, đến giữa buổi mới xuất hiện. Thậm chí, có người còn đi chợ, uống trà đến gần trưa mới tới, họ loay hoay kéo vài tấm tranh lên cho ngay ngắn là vừa đến... bữa trưa. Ca chiều thì nhiều người ăn uống no say từ trưa đến mặt trời gần khuất núi mới lò dò đến, chỉ kịp hỏi han rồi ra gốc cây châm thuốc lào rít mấy khói phù phù là sẩm tối, tới giờ cơm. Kiểu làm đó khiến qua mấy tuần mà lợp mái chưa xong, thưng vách dang dở, trong khi cơm nước thết đãi “miệng ăn núi lở”.

Sau này, khi kinh tế khá hơn, người ta bắt đầu bỏ hình thức mượn người làm nhà giúp bằng cách thuê theo ngày công. Chủ thầu đến xem xét quy mô công trình rồi ngả giá thanh toán tiền theo số người làm và số ngày công. Kết cục là nhà khởi công xong, nhân công kéo đến đông, vừa làm vừa ngắm, vừa công trình này lại thêm công trình kia, mấy tháng trời không xong ngôi nhà cấp 4 trong khi bảng theo dõi ngày công dày lên, tiền thuê ngày một lớn. Rõ ràng cách thuê theo số người làm và số ngày công chỉ khiến bên nhận làm thuê có lợi và muốn kéo dài công trình để tiền công tăng lên, trong khi chủ nhà nắm đằng lưỡi, nhà mãi không xong mà cũng không cách nào “trói” họ được.
Viện dẫn trên chỉ là một câu chuyện nhỏ trong sự thay đổi của nhận thức, cách làm về thuê mướn trong kinh tế thị trường. Nếu chỉ làm theo tinh thần tập thể, lợp nhà kiểu tập thể thì người làm tất bật cũng ngày 3 bữa cơm như người làm lớt phớt, làm lấy lệ. Còn, nếu chỉ làm theo ngày công thì họ kéo dài lề mề, khó đem lại năng suất, hiệu quả và tính kịp thời cho chủ nhà. Vì thế, sau này, hình thức “khoán trắng” hay hợp đồng trọn gói mới ra đời, gia chủ chỉ làm việc với chủ thầu, tính toán công trình rồi nhân lên giá thành, đồng thời kèm theo điều kiện về thời gian, nếu xong sớm sẽ cộng thêm tiền thưởng, ngược lại, nếu chậm sẽ bị trừ theo ngày. Như vậy là công trình được hạch toán rõ ràng, theo đó, chất lượng, tiến độ đảm bảo, cả hai bên đều có cơ sở đảm bảo lợi ích.
Kinh tế tư nhân được dùng để chỉ các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Cả hai thành phần kinh tế trên thuộc cùng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tuy nhiên quy mô sở hữu là khác nhau.
Thực tế, quan điểm về phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong tác phẩm “Thường thức chính trị” (9/1953). Người đã đề cập đến sự tồn tại của các loại hình kinh tế khác nhau, trong đó có kinh tế tư nhân: “Những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ, đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà”. Tuy nhiên, do bối cảnh lịch sử, thành phần kinh tế này phải đợi đến Đại hội VI của Đảng mới chính thức được khai mở.
Văn kiện Đại hội VI khẳng định “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch...”. Lúc này, Đảng ta khẳng định cần phải “củng cố thành phần kinh tế XHCN bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện”, đồng thời nêu rõ, “bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế XHCN”.
Như vậy, các thành phần kinh tế phi XHCN được thừa nhận sự tồn tại và hoạt động dưới sự chỉ đạo, dẫn dắt của thành phần kinh tế XHCN. Tuy nhiên, lúc này, kinh tế tư nhân nói riêng, các thành phần kinh tế phi XHCN nói chung do vừa được hé mở nên vẫn bị coi là đối tượng phải cải tạo, bằng những hình thức và bước đi thích hợp, tránh chủ quan, nóng vội. Đó là bước khởi đầu quan trọng đối với kinh tế tư nhân nước ta, mở đường cho những bước đột phá mạnh hơn sau này.
Tiếp tục tư tưởng của Đại hội VI, Đại hội VII khẳng định: “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”. Như vậy, từ chỗ coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế “tàn dư” của chế độ xã hội cũ, có thể sử dụng nhưng cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp, Đại hội VII đã thực sự coi kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung.
Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 3, khóa X đã thảo luận và thông qua “Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân”. Lần đầu tiên, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân được Đảng ta chính thức nêu ra. Quy định này cho thấy, Đảng ta rất thận trọng nhưng cũng đã mở đường cho đảng viên được kinh doanh hợp pháp. Đến Đại hội XII (1/2016) là sự khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát hơn của Đảng khi coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định, phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững, “thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân...”. Và, đến nay, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị khóa XIII đánh dấu bước ngoặt mới khi xác định rõ: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững”.
Như vậy, sau gần 40 năm đổi mới, vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân từ chỗ chỉ là thành phần kinh tế có thể được sử dụng và cần cải tạo bằng những bước đi thích hợp đến chỗ có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; từ chỗ là một trong những động lực của nền kinh tế, rồi “một động lực quan trọng” và nay là “động lực quan trọng nhất”.
Adam Smith, nhà kinh tế học người Scotland từng viết: “Chúng ta không mong đợi bữa ăn ngon của mình từ thiện chí của người bán thịt, người nấu bia hay người làm bánh mì, mà từ việc họ theo đuổi lợi ích của chính họ”. Nghĩa là, người nấu bia, bán thịt làm đồ ăn ngon trước hết không phải vì muốn người mua có bữa ăn ngon mà vì chính họ: để bán được hàng, kiếm được nhiều lợi nhuận! Người làm bánh mì nói “tôi làm ngon nhằm phục vụ khách hàng”, song thực chất là họ làm ngon để kéo nhiều khách hàng về mình, vì chính cái túi tiền của ông chủ bánh mì. Kinh tế tư nhân “tháo rào” để phát triển, trước hết là vì chính lợi ích của tư nhân, vì “dân giàu”, rồi đến đóng góp cho xã hội để “nước mạnh”.
Phát biểu tại Hội nghị trực tuyến ngày 18/5, Tổng Bí thư Tô Lâm cho rằng, trong tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực trong xã hội trở thành yêu cầu cấp thiết để phát triển nhanh và bền vững. Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị đánh dấu bước tiến quan trọng trong tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng khi xác định: “Kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân”.
Đây là sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức chiến lược: từ việc coi kinh tế tư nhân là khu vực bổ trợ, nay trở thành một trụ cột phát triển, song hành cùng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tạo nên thế “kiềng ba chân” vững chắc cho một nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập hiệu quả. Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là nhu cầu kinh tế mà còn là mệnh lệnh chính trị nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia và khả năng thích ứng trong bối cảnh toàn cầu đầy biến động.
Và, “phát súng lệnh” đầu tiên khi Nghị quyết 68 ra đời chính là tín hiệu từ Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển đường sắt cao tốc VinSpeed - doanh nghiệp trong hệ sinh thái Vingroup, đề xuất đầu tư trực tiếp tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, tức doanh nghiệp sẽ trở thành chủ đầu tư dự án thay vì Nhà nước theo hình thức đầu tư công như lâu nay. Khi thông tin này mới tung lên mạng, dư luận thực sự bất ngờ.
Trước đây, với một dự án giao thông tầm trung, doanh nghiệp tư nhân còn “chưa có cửa” huống gì một siêu dự án lớn chưa từng có ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi mà Nghị quyết 68 đã xác định rõ quan điểm “động lực quan trọng nhất” thì việc doanh nghiệp tư nhân thay vai trò doanh nghiệp nhà nước “gánh” trọng trách này cũng là điều cần được đặt ra. Đương nhiên, việc doanh nghiệp tư nhân nhận “ôm” công trình lịch sử như vậy là vấn đề phải tính toán hết sức kỹ lưỡng, thận trọng.