Bí mật vụ phá hủy nhà máy nước nặng Vermork – Na Uy
Kết quả là Đức Quốc xã không thể chế tạo thành công quả bom nguyên tử đầu tiên trong lịch sử để hủy diệt nước Anh…
Bài 1: Hiểm họa cận kề
Bối cảnh của vụ phá hủy nhà máy nước nặng Vermork
Được xây dựng năm 1934 bởi Công ty Norsk Hydro, Na Uy, nước nặng của nhà máy Vermork là sản phẩm phụ thu hồi được từ việc sản xuất amoniac dùng làm phân bón. Nếu như trong loại nước bình thường người ta vẫn sử dụng hàng ngày, chỉ có một nguyên tử deuterium cho mỗi 6.400 nguyên tử hydro nhưng trong nước nặng, số nguyên tử deuterium là 48. Nó sinh ra trong quá trình điện phân hydro để lấy amoniac và thời điểm ấy, Vermork là nhà máy đầu tiên trên thế giới sản xuất nước nặng, công suất 12 tấn/năm.
Cũng trong năm 1934, Enrico Fermi, nhà vật lý người Mỹ cùng các cộng sự đã thành công trong việc dùng hạt neutron để bắn phá nguyên tử uranium - là chất chủ yếu dùng làm bom nguyên tử. 4 năm sau, Otto Hahn, nhà hóa học Đức, phát hiện một chi tiết cực kỳ quan trọng - là nền tảng cho việc hình thành những quả bom nguyên tử về sau này. Đó là nếu kiểm soát được phản ứng dây chuyền xảy ra trong quá trình bắn phá nguyên tử uranium bằng neutron, sẽ phát sinh một nguồn năng lượng cực kỳ to lớn, và loại vật chất có thể kiểm soát neutron chính là nước nặng!
Nhà máy nước nặng Vermork. |
Cũng cần nói thêm rằng sau khi Đức Quốc xã đầu hàng - ngày 7-5-1945 - Otto Hahn ra trình diện người Mỹ rồi cùng một số nhà khoa học khác, giúp nước Mỹ chế tạo 2 quả bom nguyên tử ném xuống 2 thành phố Nhật Bản Hiroshima, Nagasaki trong các ngày 6 và 9-8-1945.
Ngày 9-4-1940, Đức Quốc xã chiếm Na Uy. Trước đó, mặc dù Na Uy là quốc gia trung lập nhưng do đã tiên lượng, đồng thời biết được phát hiện của Otto Hahn trong việc kiểm soát neutron bằng nước nặng nên Cơ quan Tình báo quân sự Pháp Deuxième - thường được gọi là Phòng Nhì - đã cử ba sĩ quan là trung tá Mossé, đại úy Muller và đại úy Knall Demars đến Na Uy, hỏi “mượn” ông Albert, giám đốc nhà máy Vermork toàn bộ 185kg nước nặng rồi chuyển về Pháp vì sợ nó lọt vào tay quân Đức.
Năm 1941, khi Đức Quốc xã chiếm nước Pháp, nhà khoa học hạt nhân người Pháp là ông Frédéric Joliot Curie - chồng bà Marie Curie và cũng là nhà khoa học hạt nhân, đã chôn giấu 185kg nước nặng ấy trong hầm Ngân hàng Banque de France rồi chuyển nó đến Bordeaux, đưa lên tàu Broompark, chạy sang Anh quốc.
Tuy nhiên, do nhà máy Vermork vẫn còn đủ khả năng sản xuất nước nặng nên với Anh quốc nói riêng và phe Đồng minh nói chung, Vermork là một hiểm họa cận kề vì Đức Quốc xã sẽ dùng nó để chế tạo bom nguyên tử .
Vì vậy, phá hủy nhà máy Vermork là yêu cầu cấp thiết của phía Đồng minh. Gần 1 năm sau ngày Đức chiếm Na Uy, Cơ quan Hành động đặc biệt Anh quốc chỉ thị cho 4 điệp viên nằm vùng người Na Uy ở cao nguyên Hardanger, phía trên nhà máyVermork, chuẩn bị đón một nhóm biệt kích SOE.
Do tính sai hướng gió lúc nhảy dù, nhóm biệt kích mất 3 ngày di chuyển mới gặp được 4 điệp viên Na Uy. Hệ quả là lúc điệp viên Na Uy mở điện đài liên lạc với Trung tâm chỉ huy SOE thì nơi đây nghi ngờ cả nhóm đã lọt vào tay quân Đức bởi lẽ theo kế hoạch, 12 tiếng đồng hồ kể từ khi nhóm SOE nhảy dù rồi khi gặp nhau, phía Na Uy phải báo cáo về London nhưng họ lại im lặng suốt 3 ngày.
Theo nhận định của SOE, có thể Cơ quan Tình báo quân đội Đức Abwehr đang chơi trò “tương kế tựu kế, gậy ông đập lưng ông” nên câu đầu tiên trong cuộc điện đàm, SOE hỏi theo mật mã đã quy ước để chắc chắn rằng nhóm SOE và 4 điệp viên Na Uy không bị người Đức khống chế: “Bạn thấy gì sáng nay?”. Điệp viên Na Uy đáp: “Ba con voi màu hồng”.
Câu trả lời đúng quy ước đã khiến SOE tin rằng các điệp viên của họ và nhóm biệt kích vẫn an toàn nhưng rủi thay, cuộc điện đàm bị bộ phận mã thám của Cơ quan Tình báo quân đội Đức Abwehr phát hiện, nhóm SOE và 4 điệp viên phải chạy trốn vì bị lính Đức săn lùng nên kế hoạch đặt mìn phá hủy nhà máy nước nặng Vermork bị hủy bỏ.
Ngày 19-10-1942, một lần nữa SOE tiếp tục thực hiện một chiến dịch, đặt tên là Freshman, cũng với mục đích phá hủy nhà máy Vermork. Bằng cách sử dụng 2 tàu lượn Airspeed Horsa, mỗi chiếc gồm 2 phi công điều khiển và 15 biệt kích, được kéo bởi 2 máy bay ném bom Handley Page Halifax, cất cánh từ sân bay Skitten, Anh quốc, dự định hạ cánh xuống mặt hồ Mosvatn đã đóng băng, gần nhà máy Vermork.
Nhóm SOE và các điệp viên Na Uy trong kế hoạch đột kích lần đầu tiên nhưng thất bại. |
Tuy nhiên, do đường bay khá dài, thời tiết lại rất tồi tệ, tầm nhìn kém nên một chiếc Handley Page Halifax đã đâm vào một ngọn núi, giết chết tất cả phi hành đoàn trên máy bay cũng như các biệt kích trên tàu lượn. Chiếc thứ hai bay gần đến đích thì lại không thể xác định chính xác vị trí thả tàu lượn vì không thấy đèn hiệu của 9 điệp viên Na Uy ở dưới mặt hồ nên phi công quyết định quay về.
Thế nhưng do gặp phải một cơn giông, sợi dây kéo nối giữa máy bay và tàu lượn bị đứt khiến chiếc tàu lượn phải hạ cánh khẩn cấp. Ngoài một số biệt kích chết ngay tại chỗ, số còn lại bị Cơ quan mật vụ Đức Quốc xã Gestapo bắt, bị tra tấn rồi bị hành hình.
Chiến dịch Gunnerside
Sau khi chiếm được nhà máy nước nặng Vermork, Đức Quốc xã lập tức đẩy nhanh chương trình nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử dưới sự lãnh đạo của Otto Hahn. Từ tháng 6-1940, nhà máy Vermork bắt đầu sản xuất nước nặng với công suất 100kg/tháng.
Theo tính toán của Otto Hahn, để làm ra một quả bom nguyên tử thì phải cần đến 5.000kg nước nặng nên Hitler đã ban hành một chỉ thị đặc biệt, yêu cầu phải bảo vệ Vermork bằng mọi giá, nhất là sau cuộc đột kích bất thành của nhóm SOE trong Chiến dịch Freshman.
Về phía 9 điệp viên Na Uy thoát chết sau Chiến dịch Freshman, bị quân Đức săn đuổi, cả nhóm phải trốn vào những hang núi, sống bằng rong rêu, địa y và thịt tuần lộc chết trong suốt mùa đông. Ở London, Bộ Chỉ huy SOE sau nhiều phiên liên lạc, họ tin rằng các điệp viên của họ vẫn còn sống và vẫn an toàn nên SOE quyết định tung ra một chiến dịch nữa, gọi là Chiến dịch Gunnerside.
Để chuẩn bị cho Chiến dịch Gunnerside, trong các ngày 11, 12-2-1943, các máy bay Halifax của Không quân Hoàng gia Anh lần lượt thả xuống các vị trí cách nhà máy Vermork từ 5 đến 8km những thùng chứa lương thực, trang thiết bị và 6 biệt kích người Na Uy. Cũng trong ngày 12-2, 8 biệt kích SOE chỉ huy bởi thiếu tá Jens-Anton Poulsson nhảy dù xuống.
Đến ngày 16-2, nhóm SOE và nhóm Na Uy - kể cả 9 người trước đó trốn trong hang núi - gặp nhau. Họ thống nhất cuộc tấn công phá hủy nhà máy nước nặng Vermork sẽ được tiến hành vào nửa đêm ngày 27, rạng sáng ngày 28. Các cuộc trinh sát của biệt kích SOE diễn ra vào các đêm 19, 20, 21-2 cho thấy sau Chiến dịch Freshman, quân Đức đã gài mìn ở những nơi nghi ngờ quân Anh có thể dùng để đột nhập, đồng thời đặt thêm nhiều đèn pha, bố trí các đội tuần tra xung quanh nhà máy.
Riêng với cây cầu dài 75m bắc qua sông Mana, cửa ngõ chính dẫn vào nhà máy, được bảo vệ bởi 1 đại đội đặc biệt tinh nhuệ SS cùng 4 xe bọc thép và nhiều súng đại liên.
Về phía nhóm biệt kích, theo kế hoạch, họ sẽ xuất phát từ dưới khe núi, cách chỗ cây cầu bắc qua sông Mana 2km. Tiếp theo, họ vượt sông Mana đã đóng băng rồi leo lên ngọn đồi đối diện với nhà máy Vermork. Sau đó họ đi dọc tuyến đường sắt dẫn thẳng vào sân nhà máy. Một điệp viên người Na Uy nằm vùng trong nhà máy là Skinnarland trước đó đã cho biết tuyến đường sắt không hề có lính canh vì quân Đức tin rằng người Anh không thể nào đi lên từ dưới khe núi vì nó cao 372m với hầu hết là những gờ đá dựng đứng, lởm chởm.
Nhóm SOE trong chiến dịch Freshman ra khỏi tàu lượn lúc nó bị rơi. |
Vẫn theo thông tin của điệp viên Skinnarland, khi đã lọt vào bên trong căn hầm đặt các máy điện phân hydro để cho ra amoniac cùng sản phẩm phụ là nước nặng, người duy nhất mà nhóm biệt kích sẽ gặp là Johansen, thợ bảo trì và anh ta sẵn sàng hợp tác.
Tại căn hầm đặt máy điện phân, nhóm biệt kích đặt mìn có đồng hồ hẹn giờ để họ đủ thời gian rút lui nhưng trước khi rút, họ sẽ cố ý bỏ lại 1 khẩu súng tiểu liên Thompson, mặc định rằng cuộc tấn công phá hủy là do người Anh thực hiện chứ không phải do du kích địa phương, nhằm tránh quân Đức trả thù thường dân Na Uy vô tội.
Diễn tiến vụ phá hủy
10 giờ 30 phút đêm 27, nhóm phá hủy nhà máy Vermork gồm 8 biệt kích SOE và 6 biệt kích Na Uy bắt đầu xuất phát, số còn lại làm nhiệm vụ dự phòng. 0 giờ 30 phút ngày 28, họ tiếp cận cánh cổng bằng sắt của nhà máy sau khi đã bố trí 4 biệt kích Na Uy làm nhiệm vụ chặn hậu. Bằng chiếc kìm cộng lực, biệt kích Ronneberg nhanh chóng cắt đứt ổ khóa rồi chỉ mất 20 giây, tất cả đã có mặt trong sân.
Theo lệnh của thiếu tá Jens-Anton Poulsson, cả 8 biệt kích SOE sẽ cùng ông xuống tầng hầm nằm sâu dưới đất 10,3m, nơi đặt các máy điện phân còn 2 biệt kích Na Uy ở lại để đánh trả lính Đức nếu bị phát hiện. Nỗi lo của tất cả mọi người lúc ấy là mặt trăng đột nhiên hiện ra rực rỡ và điều này sẽ giúp lính Đức dễ dàng nhìn thấy họ khi họ rút lui.
Đúng như lời điệp viên nằm vùng Skinnarland nói, bên trong nhà máy hoàn toàn vắng lặng. Tại hành lang dẫn đến khu vực có in dòng chữ trên tường bằng tiếng Đức: “Không phận sự cấm vào”, thiếu tá Jens-Anton Poulsson chia nhóm SOE làm hai, mỗi nhóm mang theo 1 balô thuốc nổ, đi thẳng đến cánh cửa dẫn xuống tầng hầm nhưng nó đã bị khóa.
Theo kế hoạch, điệp viên Na Uy nằm vùng trong nhà máy là Skinnarland sẽ phải mở khóa từ trước nhưng oái ăm thay, hôm ấy ông này lại bị sốt cao, không đi làm! Thiếu tá Jens-Anton Poulsson kể lại: “Trước đó, chúng tôi đã được phổ biến rằng cánh cửa dẫn xuống hầm đặt máy điện phân là một dạng cửa cuốn, điều khiển bằng dây cáp. Vì vậy cách chọn lựa duy nhất là xuống bằng đường ống đặt cáp”.
Lúc này, cả nhóm biệt kích đều ý thức rằng thời gian đối với họ rất quan trọng nên Ronneberg và Kayser nhanh chóng trèo lên đỉnh trục rồi trườn người vào lỗ trục. Khéo léo lách qua những bó dây cáp, cả hai xuống đến tầng hầm. Johansen, nhân viên trực kỹ thuật người Na Uy há hốc miệng khi thấy trước mặt là hai người trong bộ quân phục Anh quốc nhưng anh ta vẫn dẫn họ đến 2 máy điện phân đang hoạt động.
Ngay lập tức Ronneberg mở ba lô, lần lượt đặt những thỏi thuốc nổ hình cây xúc xích vào tua-bin của máy điện phân rồi bấm đồng hồ hẹn giờ, đúng như những gì anh đã được thực tập trên mô hình khi còn ở London…