Chỉ dấu nghìn năm thiêng liêng trên “Bức tường than khóc”
- Tổng thống Mỹ và vấn đề Israel - Palestine: Bên nào trọng, bên nào khinh?
- Israel: Dùng du lịch để hợp pháp hóa khu định cư Bờ Tây
- Vấn đề định cư Do Thái ở Bờ Tây: Thủ tướng Israel Netanyahu liệu có nhượng bộ?
Việc viếng thăm “Bức tường than khóc” (Wailing Wall hay còn gọi là Western Wall-Bức tường phía Tây) và Nhà thờ Mộ thánh (Holy Sepluche) trong khu vực Cổ thành Jerusalem đã trở thành thông lệ không thể bỏ qua đối với tất cả các nguyên thủ quốc gia khi thực hiện chuyến thăm viếng chính thức Israel bởi vì đối với dân tộc Do Thái, đây không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là niềm tự hào dân tộc; là hai trong số những địa điểm tôn giáo lâu đời và linh thiêng nhất thế giới.
"Than khóc" cho vận số ngàn năm vong quốc
Bức tường Than khóc được xây dựng vào đầu thế kỷ I trước Công Nguyên (CN), trên một đoạn đường đẫn đến ngôi đền thờ lớn do Vua Salomon xây dựng trước đó khoảng 1.000 năm (tức vào thế kỷ thứ 10 trước CN).
Theo Kinh Thánh ghi lại, đền thờ của Vua Salomon được hoàn thành trên đỉnh Núi Đền (Temple Mount), bị quân Babylon tàn phá năm 586 trước CN và đến khoảng năm 19 trước CN, thời Herod Đại đế- vị vua đứng đầu nhà nước Do Thái cổ đại- ngôi đền được xây lại nguy nga đồ sộ hơn trước. Ông cho mở rộng khu vực này thành một nền đất lớn. Ngôi đền do Herod Đại đế xây dựng lại bị quân La Mã phá hủy vào năm 70 sau CN trong cuộc chiến tranh Do Thái-La Mã lần thứ nhất, chỉ còn lại đoạn bức tường phía Tây vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay.
![]() |
Ngày 22-5, nhân chuyến thăm chính thức tới Israel, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ghé thăm “Bức tường than khóc”. |
Đến năm 135 sau CN, cuộc khởi nghĩa của dân tộc Do Thái bị dập tắt, lần này Hoàng đế La Mã quyết định lưu đày toàn bộ sắc dân Do Thái, cấm họ đến Jerusalem thờ phụng vì họ nhất định không chịu tôn thờ Hoàng đế La Mã được cả thế giới thời bấy giờ tôn vinh như một vị á thần, một thiên tử.
Đến thời Hoàng đế Constantine chấp nhận theo Thiên Chúa giáo thì người Do Thái được quyền trở lại Jerusalem để "than khóc" tại bức tường phía Tây với niềm tin một ngày nào đó sẽ có một vị cứu thế mà họ gọi là "Đấng Messiah" ra đời và sẽ đưa dân tộc Do Thái trở về quê hương Jerusalem của họ và khi đó họ sẽ xây dựng lại một ngôi đền thờ mới. Điều này lý giải vì sao trước khi Israel được phục quốc, vào dịp đầu năm mới, người Do Thái có lệ chúc nhau bằng câu "Next year, in Jerusalem" (Sang năm xin hẹn tái ngộ tại Jerusalem).
Người Hồi Giáo cũng coi Bức tường phía Tây (mà họ gọi là Al Buraq) là một thánh địa vì họ tin Giáo chủ Mohamed đã buộc con ngựa Al Buraq ở nơi đây trước khi bay về Thiên đường. Khi người Anh chiếm được Jerusalem trong Thế chiến thứ I thì người Do Thái được quyền tự do đến hành lễ tại bức tường nhưng họ vẫn không được quyền làm chủ cả khu vực để có thể sửa sang lại.
Đến khi nhà nước Israel ra đời vào năm 1948 thì giữa người Do Thái và Arập lại diễn ra một cuộc chiến dữ dội, tuy phần thắng thuộc về người Do Thái nhưng họ vẫn không lấy lại được khu Cổ thành, nhất là di tích quý giá nhất của họ- Bức tường phía Tây. Cơ hội đã đến trong cuộc chiến tranh 6 ngày diễn ra vào năm 1967, Israel đại thắng trước liên quân Ai Cập- Syria- Jordan-Iraq, chiếm lại được toàn bộ Jerusalem và vùng Cổ thành với “Bức tường Than khóc”.
Mừng chiến thắng, quân đội Israel dùng xe ủi đất san phẳng những khu xung quanh bức tường để biến thành một quảng trường rộng lớn có thể dùng làm nơi hành hương thờ phụng cho khoảng 400.000 người trong những dịp lễ lớn.
Từ đó trở đi, khu vực này được gọi là Quảng trường Bức tường phía Tây (Western Wall Plaza). Bức tường có tên là "than khóc" vì đây chính là nơi để người Do Thái đến tỏ lòng tiếc thương cho ngôi đền đã bị phá hủy, khóc cho kiếp vong quốc của họ từ hàng ngàn năm trước, cho những nỗi bất hạnh, tai ương dân tộc mình đã gánh chịu trong suốt chiều dài lịch sử, nhất là trong thời Trung Cổ và sau cùng là thảm họa diệt vong Holocaust khi 6 triệu người Do Thái bị những kẻ cầm đầu chế độ Quốc xã đưa vào các lò thiêu.
Ngày nay “Bức tường than khóc” dài 57m, cao khoảng 20m- là phần còn sót lại của nền đất từng hiện hữu ngôi đền với hơn một nửa bức tường, gồm 17 hàng phiến đá vôi ở phần thấp nhất là thuộc về công trình xây dựng ban đầu có niên đại từ cuối thời kỳ xây dựng ngôi đền thứ hai, các lớp khối đá còn lại được bổ sung từ thế kỷ thứ VII trở đi.
Người ta đếm được 45 phiến đá rất lớn, trung bình mỗi phiến nặng từ 2-3 tấn và có phiến lớn nhất nặng hàng trăm tấn. Theo kinh Mishna của Do Thái giáo thì bức tường là nơi ở gần khu vực Thánh Khiết nhất nên khi người Do Thái tại bất cứ nơi nào trên thế giới cầu nguyện thì những lời cầu nguyện đó sẽ bay đến bức tường để lên đến Thiên đường, vì vậy khi hành hương về Thánh địa Jerusalem, triệu triệu người Do Thái đều đến bên bức tường linh thiêng làm lễ tạ ơn Thượng đế và nguyện cầu cho dân tộc mình được hưng thịnh.
Toàn cảnh “Bức tường Than khóc”. |
Không kể đến những dịp lễ lớn hay khi diễn ra cuộc hành hương hàng năm, ngày nào trên Quảng trường Bức tường phía Tây rộng lớn cũng hiện diện rất nhiều du khách và các tín đồ. Bên cạnh khu vực dành riêng cho những người Do Thái giáo cầu nguyện, đọc Thánh Kinh bằng tiếng Hebrew còn có những người Do Thái theo nhóm Hassidi, đàn ông để râu dài, trong sắc phục áo dài đen, đội mũ đen.
Thông lệ bắt buộc mọi người khi đến bên bức tường chiêm ngưỡng hay cầu nguyện không được để đầu trần nên tại đây đặt các chiếc thùng chứa những chiếc mũ tròn đen bằng giấy có tên gọi là "kippah" mà người Do Thái giáo thường đội khi cầu nguyện, nên những ai không có mũ thì lấy đội lên đầu, còn phụ nữ nếu không có mũ thì đội khăn.
Trước đây, phụ nữ không được cầu nguyện ở “Bức tường than khóc” nhưng ngày nay, để thể hiện tinh thần bình quyền, họ có khu vực cầu nguyện riêng ở phía Nam. Đến bên bức tường, những người thành kính thường chạm tay, cúi đầu chạm trán vào những phiến đá hàng ngàn năm tuổi và ghi lại ước nguyện lớn nhất của mình vào một mảnh giấy rồi gắn vào một kẽ, hốc bất kỳ trên bức tường. Hàng ngày có hàng ngàn người tới để lại "thỉnh nguyện thư" và các lá thư sau đó đều được thu gom lại rồi đem đi chôn trên ngọn đồi Olives, theo truyền thuyết là nơi Chúa đi qua.
Quy tắc đề ra không ai được quyền xem những thỉnh nguyện đó vì sẽ làm mất đi sự "linh nghiệm". Trong thời kỹ thuật hiện đại, nhiều công ty viễn thông đã mở dịch vụ đón nhận những lời thỉnh nguyện bằng điện tín, điện thư qua fax, e-mail rồi đem in chúng gắn lên bức tường. Năm 2000, khi Đức Giáo Hoàng John Paul đệ II đến thăm Jerusalem thực hiện việc giảng hòa giữa dân tộc Do Thái và Thiên Chúa giáo thì Ngài đã đến Bức tường gắn thỉnh nguyện thư. Chính phủ Israel khi đó đã phát hành một tem thư kỷ niệm sự kiện quan trọng này.
Trong thời gian tranh cử tổng thống Mỹ, ông Barack Obama cũng đã đến thăm “Bức tường than khóc” và cũng theo thông lệ, ông đội mũ "kippah", viết một bức thư đem đặt vào một kẽ đá. Có một sinh viên người Do Thái đã trộm được bức thư đó rồi… đem bán cho nhật báo Ma'ariv đăng tải khát vọng thầm kín của ông.
Rabinowitz Shmuel, Giám quản khu vực Bức tường Than khóc đã kịch liệt chỉ trích ban biên tập tờ Ma'ariv vi phạm luật lệ vì "bức thư là sự tương giao giữa một cá nhân và Thượng Đế nên không ai có quyền được xem".
Thật hay là trong bức thư này, ông Obama đã viết lên tâm tư sâu kín của ông trong cuộc đối đầu với với ứng cử viên John McCain mà ông chưa tin vào chiến thắng với thân phận của một người da đen lần đầu tiên ra tranh cử tổng thống Mỹ.
Ông viết: "Con cầu xin Thượng Đế tha lỗi cho con, giúp cho con tránh được sự kiêu ngạo và sai xót. Xin Ngài ban cho con sự thông sáng để biết được đường ngay lẽ phải". Trong thỉnh nguyện thư này, Obama không hề xin Thượng đế giúp cho ông được đắc cử tổng thống Mỹ mà chỉ xin "được làm một công cụ của Ngài" (an instrument of Your will).
Bí ẩn về ngôi sao David trên Bức tường Than khóc
Khi đứng dưới chân tường và ngước nhìn lên, người ta sẽ bắt gặp hình khắc ngôi sao 6 cánh. Hình ảnh ngôi sao này còn xuất hiện từ trên những công trình kiến trúc của người Do Thái, đồ trang sức dành cho tín đồ cho đến đồ lưu niệm bán cho du khách, trên phim ảnh… Đó chính là ngôi sao David (hay còn gọi là Tấm khiên David) nổi tiếng của người Do Thái- một trong các biểu tượng cổ xưa của người Do Thái về quyền lực và bùa chú nổi tiếng thế giới.
Biểu tượng ngôi sao David 6 cánh trên bức tường. |
Hình ngôi sao David 6 cánh do 2 hình tam giác lồng vào nhau, được đặt tên theo vua David, vị vua thứ hai của người Isarel. Vị vua này cũng chính là cảm hứng để Michelangelo, nhà điêu khắc, họa sĩ thiên tài thời Phục hưng tạo nên kiệt tác danh bất hư truyền - bức tượng David khỏa thân.
Mặc dù là ngôi sao 6 cánh, sao David lại là biểu tượng cho số 7, bao gồm 6 mũi nhọn và phần trung tâm. Trong Do Thái giáo, số 7 này biểu trưng cho việc Thượng đế đã tạo ra thế giới trong 6 ngày, cộng thêm một ngày thứ 7 để nghỉ ngơi. Theo đó, một tuần có 7 ngày, 6 ngày làm việc và một ngày nghỉ ngơi.
Cây chúc đài trong các đền thờ cổ cũng có 7 ngọn đèn dầu với 3 ngọn ở mỗi bên và 1 ngọn ở giữa. Còn theo đạo phái Kabbalah, ngôi sao David biểu tượng cho 6 hướng và trung tâm: trên, dưới, đông, tây, nam, bắc và trung tâm. Các tín đồ của đạo này cũng coi biểu tượng ngôi sao 6 cánh là lá bùa hộ mạng.
Ngôi sao xuất hiện lần đầu trên văn tự Mezuzot - những luật lệ của đạo Do Thái thường được khắc trên trụ nhà và qua các hình thức bùa chú trong văn tự cổ. Theo nhà nghiên cứu Gershom Scholem, biểu tượng này xuất hiện vào thế kỷ XIV trong cộng đồng người Do Thái ở trung Âu. Đến thế kỷ XIX, nó mới trở nên phổ biến tại nhiều nhà thờ của người Do Thái.
Những người trong giới chiêm thuật tin rằng, ngôi sao 6 cánh này còn là một loại phong ấn đầy quyền lực. Con người khi được đóng dấu này lên mình sẽ không thể bị "quỷ ám". Quan điểm này được dựa trên một truyền thuyết về Vua Solomon điều khiển thế lực hắc ám bằng một chiếc nhẫn có dấu ấn đặc biệt mà Thượng đế ban cho ông.
Theo một số nguồn dẫn, biểu tượng cổ xưa về 4 thành tố của vạn vật trong vũ trụ- Nước, Lửa, Gió, Đất- cũng được vẽ từ các hình cơ bản trong ngôi sao 6 cánh này. Do đó, sao David mang ý nghĩa về sự hòa hợp của những yếu tố đối lập, cũng giống như Vua Solomon - một chiến binh oai dũng và cũng là một nghệ sĩ có ngón đàn hạc tuyệt đỉnh.
Ngôi sao David còn gắn liền với một biểu tượng nổi tiếng khác- ấn triện của Vua Solomon, con trai Vua David. Ông là người xây dựng đền thánh đầu tiên ở kinh thành Jerusalem. Một phần trong tên thành phố, Shalem được đặt theo tên Vua Solomon, người được Thượng đế ban tặng cho cả "sự khôn ngoan và trí tuệ".
Theo truyền thuyết, ấn triện của vua là một chiếc nhẫn khắc hai hình tam giác lồng vào nhau; hình tam giác bên dưới thuộc về mặt đất, tam giác bên trên chạm tới bầu trời, là biểu tượng cho sự hòa hợp. Nó thể hiện trật tự vũ trụ và mối liên kết vĩnh viễn giữa trời và đất. Biểu tượng này mang thiên chức của một phong ấn bảo vệ thành phố khỏi những tai ương, sự quấy nhiễu của ma quỷ và đem lại hòa bình.