Nữ tính của Phật giáo Việt

16:26 05/05/2010

Theo họa sỹ Phan Cẩm Thượng, với lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều của Phật giáo Ấn Độ chứ không phải Phật giáo Trung Quốc. Nó thể hiện trong kiến trúc, điêu khắc và các nhân vật được nhân dân thờ tự.

Yếu tố nữ tính của Phật giáo Việt

Trước hết đó là vật thờ có hình linga, chính là Đức Thạch Quang, trong truyền thuyết là đứa bé được Khâu đà la đưa vào thân cây Dung thụ hóa thành. Thứ hai, đó là cách tạo tượng mây mưa sấm chớp giống hệt tượng dòng Ấn Độ - Khơme. Có lẽ, do ảnh hưởng của tạo hình Phật giáo nguyên thủy, được các nhà sư Ấn Độ đưa sang. Các tượng Tứ Pháp đều cởi trần, quấn xà rông, nhân tướng theo kiểu Ấn Độ, mũi cao, lõ… Điều đặc biệt, những thân hình đều là Phật mẫu nên mang vẻ đẹp gợi cảm của phụ nữ, rất đặc biệt trong nghệ thuật Phật giáo Việt Nam. Từ tượng bà Man Nương đến các tượng Bà Trắng, Bà Đỏ và Kim đồng - Ngọc Nữ… đều rất gợi tình, gần với một thứ nghệ thuật thế tục hơn là tôn giáo. Tượng Pháp Vân thì nghiêm trang thần bí, Pháp Vũ phồn thực đầy đặn; Pháp Lôi thì thô mạnh; Pháp Điện là em út nên xinh đẹp thanh tú. Đứng về mặt nghệ thuật, không nơi đâu ở Việt Nam có một tập hợp điêu khắc gắn bó với truyền thuyết huyền thoại, với tính gợi tình và cái đẹp nữ tính huyền bí đến như vậy.

Dấu ấn Ấn Độ còn thể hiện trên những ván khắc chữ Phạn, tuy niên đại không lâu, phần lớn ở thế kỷ XIX nhưng vẫn còn nguyên chữ Phạn. Thời đó, các nhà sư Trung Quốc muốn sang Ấn Độ nghiên cứu về Phật giáo Ấn Độ đều phải qua Giao Chỉ để học chữ Phạn; ngược lại, các nhà sư Ấn Độ muốn sang Trung Quốc cũng phải qua Giao Chỉ để học chữ Hán… Đó là những dấu ấn quan trọng cho thấy, Luy Lâu được hình thành và mang đậm những nét đặc trưng của Phật giáo Ấn Độ.

Luy Lâu trở thành trung tâm Phật giáo, vì nó còn có yếu tố nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ. Kiến trúc Luy Lâu, về tổng thể có con đường đi từ Bắc xuống Nam và con đường từ Tây sang Đông. Theo hướng Bắc Nam từ Móng Cái về đến Luy Lâu, qua mấy con sông, bây giờ là đường 183 chạy từ Phú Thị sang gần Phả Lại, con đường Tây Đông xuyên Bắc Giang, Bắc Ninh, xuyên ngã tư Đông Côi về Cẩm Giàng xuống mạn Hải Dương.

Trước tiên, Luy Lâu nằm ở vị thế thuận lợi cho giao thông. Thứ hai, nó nằm ở vùng đồng bằng kẹp giữa con sông Cầu và con sông Hồng, lại có một con sông nối từ sông Cầu sang sông Hồng, đó là sông Dâu. Thực ra, sông Dâu phải "kinh qua" sông Tiêu Tương (ông Tiêu Tương nối sông Cầu và sông Hồng, gặp sông Dâu ở Đình Bảng. Sông Dâu chạy từ Đình Bảng về vùng Dâu (Luy Lâu) và chạy xuống sông Châu Giang). Chùa Dâu cách đường giao thông Đông Côi khoảng 6km, và nằm sát sông Dâu. Do điều kiện thuận tiện cho việc đi lại nên chính quyền đô hộ Trung Quốc chọn đây làm nơi đóng thủ phủ, đó là một điều dễ hiểu.

Về kiến trúc cụ thể, có mấy phân khu như sau: thành Luy Lâu nằm ngay ngã tư Dâu, và nằm sát con sông Dâu. Đây là thủ phủ của chính quyền đô hộ phong kiến, có trường dạy chữ Nho của Sỹ Nhiếp. Thứ hai, vùng Dâu là vùng cư dân Trung Quốc ở nhiều, cho nên mộ Hán còn rất nhiều ở nơi đây.

Phật giáo Tứ pháp là một Phật giáo lớn, bao giờ cũng gồm ít nhất 5 ngôi chùa: chùa Tổ (chùa thờ Man Nương) và bốn chùa con (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Đứng về mặt kiến trúc cụ thể, thành Luy Lâu hiện tại chỉ còn một khu thành đất, có trung tâm, nhưng dấu tích còn lại không nhiều về kiến trúc bên trong như thế nào. Hiện trên thành Luy Lâu chỉ còn đền thờ Sỹ Nhiếp, tương truyền là trường dạy học của ông; và một ngôi chùa sát đó có tên chùa Bình (nơi bình văn của các nho sỹ). Còn như chùa Dâu, trước đó thoạt tiên là một mặt bằng hình vuông, thờ tượng Pháp ở chính giữa, chỉ có thế chứ không có gì khác. Đến thời Trần có thêm cầu chín nhịp, có tam quan, có tháp, có thêm trước trước sau sau, mới hình thành kiểu kiến trúc nội công ngoại quốc, tất cả quy mô và kiến trúc tương đối giống nhau…

Phật giáo Ấn Độ căn bản đều là hình tượng nam. Ngay như Phật Quan Âm cũng là nam. Sang Trung Quốc, Việt Nam mới "nữ hóa" đi. Việt Nam và Trung Quốc có tục thờ các bà mẹ, gọi là thờ mẫu. Nếu không kể Tứ pháp thì chúng ta đã có tín ngưỡng thờ mẫu: mẫu Thượng thiên, mẫu Thượng ngàn, mẫu Thủy cung, đó là tam tòa thánh mẫu… Phật giáo Ấn Độ nhập với tín ngưỡng bản địa mà có sự phân hóa: Thánh mẫu Thượng thiên nhập vào Quan âm thị giả, hay Quan âm vô úy; Thánh mẫu Thượng ngàn thành Quan âm tọa sơn; Thánh mẫu Thủy cung thành Quan âm Nam Hải… Nó cộng hình tượng nam với hình tượng nữ, Phật cộng với Man Nương ra hình tượng Phật mẫu Man Nương. Đó là dấu ấn bản địa, dấu ấn của một giai đoạn mẫu hệ còn tồn tại. Cho đến bây giờ vẻ đẹp của tượng Phật Việt Nam vẫn là vẻ đẹp nữ, chứ không phải vẻ đẹp nam. Nhất là những tượng Phật ở chùa Dâu, rất nữ tính, đôi tay và ngực rất nõn nà, đẹp gợi cảm.

Phật giáo Trung Quốc tuy sang sau nhưng là một hệ thống, cùng với cả bộ máy cai trị của chính quyền phong kiến Trung Quốc. Tính hệ thống của tổ chức chính quyền đô hộ phong kiến Trung Quốc thời kỳ đó có vai trò quan trọng trong việc phát triển Phật giáo Trung Quốc tại Việt Nam. Trong truyền thuyết, tạc tượng, xây chùa… là Sỹ Nhiếp đứng ra thuê người làm. Thực ra, lúc đó Phật giáo Trung Quốc cũng chưa sang đến Việt Nam. Chính quyền phong kiến Trung Quốc chỉ mượn Phật giáo như một thứ công cụ để cai trị. Dấu ấn Phật giáo Ấn Độ vẫn là chính, là mạnh. Chính quyền đô hộ là chính quyền Trung Quốc, chứ tôn giáo là Phật giáo Ấn Độ du nhập với tín ngưỡng bản địa Việt Nam, thành ra Phật giáo Việt Nam.--PageBreak--

Cần phải biết được chính quyền phong kiến lấy Nho giáo làm căn bản, Sỹ Nhiếp cũng chỉ dạy đạo Nho. Đạo Nho không phải là tôn giáo. Ngay cả đạo Phật lúc đầu cũng không phải là tôn giáo, mà là triết học. Nhưng khi đi đến các vùng xa xôi, đưa học thuyết thế này thế kia, người dân không hiểu. Cho nên những người truyền đạo, tốt nhất cứ gọi Phật là một ông thần. Tất cả những vùng mà Phật giáo đi qua, họ đều biến Phật thành một ông thần, có phép thiêng này khác… Phật giáo là một trường phái triết học, chứ không phải là một tôn giáo. Kinh Phật không hề có tính chất tôn giáo, không bảo thờ ai, không bảo cúng ai, cũng không có một vị tối cao, tối thượng nào cả, hoàn toàn là triết học về mặt nhận thức luận.

Cái vỏ bên ngoài của Phật giáo Việt Nam từ thời đó, buộc phải nằm dưới cái vỏ của tín ngưỡng. Sau này, nó lại hoà trộn giữa tam giáo: Nho - Lão - Phật; cộng thêm tín ngưỡng dân gian mới ra Phật giáo bây giờ, viết sớ viết bùa, tụng kinh gõ mõ mà không cần hiểu nội dung kinh kệ. Đi theo đạo Phật gọi là tu, tu tức là học, học tức là nhận thức, giống như Phật giáo thời Trần, nhận thức, chứ Phật không phải là thần có tay có mắt để cứu nhân độ thế. Sự giác ngộ là giác ngộ của bản thể. Đối với nhân dân, nói như thế thì người ta không hiểu, họ cứ coi Phật là một vị thần; khi nào khó khăn thì cầu thần khấn phật giúp đỡ phù hộ. Phật bảo: "Ta chỉ là ngọn đuốc dẫn đường, còn đi thế nào là các người tự đi"…

Sơ đồ hoá hệ thống Phật giáo Luy Lâu cũng theo đó mà được sắp xếp dựa trên những yếu tố tâm linh. Chùa Man Nương quay về hướng Nam. Bốn chùa con (chùa Tứ pháp) đều quay về hướng chùa tổ, hướng Tây, chầu về hướng mẹ. Điều này là đặc trưng riêng của Phật giáo Luy Lâu… Tín ngưỡng Tứ pháp là một vùng rất rộng, kéo dài từ huyện Gia Lâm (chùa Ninh Hiệp, chùa Nành cũng thờ Pháp Vân), qua sông Đuống sang bên này là huyện Mỹ Văn (Hưng Yên), qua con sông Hồng sang bên kia là Thường Tín, kéo lên tận Giáp Bát bây giờ cũng có chùa Pháp Vân. Nó là một vệt liền nhau của 3, 4 tỉnh. Gia Lâm ngày xưa cũng thuộc về Bắc Ninh, cũng nằm trong huyện Siêu Loại, mà Luy Lâu là thủ phủ của huyện Siêu Loại.

Sự phát triển, truyền bá rộng rãi của đạo Phật có nền tảng từ những yếu tố tâm linh trong đời sống tinh thần của người Việt cổ. Tín ngưỡng thờ thần tự nhiên là một vùng rộng, vì người dân trồng lúa nước ở đồng bằng Bắc Bộ nên họ phải thờ các hiện tượng tự nhiên. Thời Trần, Mạc Đĩnh Chi cho xây tháp giống như tháp Đại Nhạn của Trần Huyền Trang (tháp Đại Nhạn nguyên là nơi chứa Kinh). Ông Mạc Đĩnh Chi đã cải biến chùa Dâu mang tính chất tu tập, tượng trưng nhiều hơn so với tính chất thờ cúng. Hết thời Trần, đạo Phật suy vong. Nhà Lê (vua Lê Thái Tổ) ra đạo luật hạn chế sư sãi, yêu cầu tổ chức thi cho các sư, và chỉ những người trên 50 tuổi mới được thi. Những người còn lại phải trở về làng, trở về cuộc sống thường ngày, tham gia cày cấy… Trong cái rủi có cái may. Những nhà sư này về làng đã tiếp tục truyền bá đạo Phật vào dân gian, và như thế đạo Phật mới có cơ hội phát triển vào trong dân gian.

Sự biến mất của một Trung tâm Phật giáo sớm nhất Đông Nam Á?

Theo thời gian, theo biến thiên lịch sử, vai trò của Trung tâm Phật giáo lớn nhất Đông Nam Á, lớn nhất vùng Đông Á của Luy Lâu cũng dần bị mai một.

Các di tích của chùa Dâu mang dấu ấn từ thế kỷ XVI đổ về là chủ yếu. Đến thế kỷ XIX, con sông Dâu bị cạn, sông Tiêu Tương và sông Dâu biến thành hai con sông chết. Điều này cũng có nguyên do của nó. Thuở đó, sông Dâu và sông Tiêu Tương chảy theo hướng Bắc - Nam, hướng có độ dốc lớn, thường gây ra lũ do lượng nước dồn về nhanh. Cả vùng Dâu - Keo, Đình Bảng ngày xưa đều thường xuyên có lụt. Người dân Kinh Bắc mới khơi con sông Thiên Đức (sông Đuống bây giờ) theo hướng Tây - Đông để chia nước sông Hồng. Khi đó, con sông Thiên Đức cũng chỉ là một con sông nhỏ, người dân bắc cầu tre đi qua được. Đình làng Đông Hồ nguyên là bên kia sông, khi khơi sông mới di về bên kia. Người ta làm chết hai con sông kia đi, nuôi con sông Thiên Đức lớn lên cắt Bắc Ninh ra làm hai phần: Nam phần Bắc Ninh (gồm bốn huyện Gia Lâm, Thuận Thành, Gia Bình, Lang Tài); Bắc phần Bắc Ninh (gồm ba huyện: Quế Võ, Tiên Du và Yên Phong).

Có thể nói, sự có mặt của con sông Thiên Đức cùng với sự biến mất của con sông Dâu và sông Tiêu Tương là thời điểm đánh dấu vai trò của trung tâm Phật giáo Luy Lâu mất dần. Nhưng thực tế, thời điểm chính quyền đô hộ chuyển từ Luy Lâu về Thăng Long (thế kỷ thứ V - VI), vai trò kinh tế, chính trị của Luy Lâu đã giảm đi rồi, theo đó vai trò truyền bá về mặt học thuật của Luy Lâu cũng giảm. Đến thời Lý, trung tâm Phật giáo nằm ở phía Bắc (chùa Phật Tích và chùa Dạm) bên Tiên Du và Quế Võ. Thế kỷ XVII, vai trò Phật giáo lại thuộc về Bút Tháp, một ngôi chùa gần đó.

Khi sông Dâu bị lấp, giao thông đường thủy không còn nữa. Đến thế kỷ XVII, người ta về Bút Tháp, về vùng Dâu vẫn đi bằng đường thủy, bằng thuyền. Dấu ấn còn lại của con sông Dâu bây giờ, chỉ là những cái ao dài còn sót lại ở các làng Bút Tháp, làng Tư Thế và đoạn sông chạy từ Dâu đến chợ Nôm. Ca dao có câu "Lênh đênh ba bể bốn bề/ Chiếc xuôi Hà Nội, chiếc về sông Dâu"… Như vậy, đến thế kỷ XIX, khi Thăng Long được đổi tên là Hà Nội thì con sông Dâu vẫn còn.

Chùa Bút Tháp, chùa Dâu… là những dấu tích của Trung tâm Phật giáo Luy Lâu còn sót lại đến bây giờ. Trên mảnh đất Kinh Bắc trữ tình diễm lệ, những cái tên, những địa danh chỉ gọi lên đã đầy chất thơ, có lẽ cũng bởi những nguồn cơn gắn liền với một trung tâm văn hóa tâm linh Luy Lâu như thế

Di Linh

Qua công tác năm địa bàn, đối tượng, Đội Cảnh sát hình sự Công an thị xã Tịnh Biên (An Giang) phát hiện có một nhóm đối tượng từ phía Bắc đến khu vực tổ 16, khóm Xuân Hoà, phường Tịnh Biên cho người dân vay tiền trả góp với lãi suất cao 10-30%/tháng. Nếu người vay không góp đúng hạn thì bị đối tượng đe dọa… 

Trưa 29/4, lực lượng tham gia chữa cháy đã cơ bản khống chế được đám cháy tại rừng tràm sản xuất Rọc Xây (ấp T4, xã Vĩnh Phú, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang) thuộc Sư đoàn 330 – Quân khu 9 quản lý, đồng thời tiếp tục tạo đường băng không cho lửa cháy lan ra các khu vực xung quanh.

©2004. Bản quyền thuộc về Báo Công An Nhân Dân.
®Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Công An Nhân Dân.
English | 中文