Công ty Đông Ấn – một “đế chế” trong lòng đế quốc Anh
Đó không chỉ là một tập đoàn thương mại. Đó phải được xem là tập đoàn thương mại toàn cầu đầu tiên trong lịch sử loài người. Và hơn thế, khi sử dụng tất cả mọi công cụ, kể cả những công cụ quân sự, để giành giật lợi nhuận, Công ty Đông Ấn Anh quốc (English East India Company), có thể nói, còn mang dáng dấp của một đế chế đúng nghĩa.
Đông Ấn, nghĩa là gì?
Đông Ấn (East India) hiển nhiên là một khái niệm liên quan tới Ấn Độ, nhưng với thế giới quan của các nước châu Âu thời ấy, ngoại diên và nội hàm của nó là "châu Á", nếu không muốn nói là "phần còn lại của cả thế giới, ngoài châu Âu".
Ta có thể thấy rõ điều này, khi nhắc lại chuyện các nhà hàng hải lừng danh, bao gồm những Bartholomeo Diaz, Vasco da Gama, Christophe Columbus hay Ferdinand Magelland dẫn đầu những hạm đội dong buồm ra biển, để đi tìm những con đường mới dẫn đến "Ấn Độ" - xứ sở của hương liệu và vải lụa - nhằm thay thế cho Con đường tơ lụa xuyên qua Trung Á đã lụi tàn.
Cũng bởi vậy, khi đặt chân đến châu Mỹ, Colombus đinh ninh rằng ông đã tìm thấy Ấn Độ. Bởi vậy, người da đỏ ở châu Mỹ được/bị các hải đoàn châu Âu (mà thực chất là các đạo quân tiền phong của chủ nghĩa thực dân phương Tây) gọi là Indian (người Ấn Độ). Bởi vậy, nước Anh từng có một vùng thuộc địa ở khu vực Caribean được đặt tên là Liên bang Tây Ấn (West Indies Federation), hiện hữu từ năm 1958 đến năm 1962. Và bởi vậy, song song với các công ty Đông Ấn hoạt động thương mại tại châu Á, ở châu Mỹ, cũng xuất hiện hàng loạt những "Công ty Tây Ấn" của các đế quốc, trong thế kỷ XVII và XVIII.
Nhưng, tất cả mọi "Công ty Đông Ấn" lẫn "Công ty Tây Ấn" đều xuất hiện sau Công ty Đông Ấn Anh quốc. Vào ngày 31/12/1600, Công ty Đông Ấn Anh quốc được thành lập theo chỉ dụ của Nữ hoàng Anh Elizabeth I. Với sắc lệnh của bà, nhóm thương nhân sáng lập Công ty Đông Ấn Anh quốc được trao quyền độc quyền thương mại với "Đông Ấn" (Ấn Độ ở phía Đông, để phân biệt với Ấn Độ ở phía Tây, tức là châu Mỹ) - dải thuộc địa trải khắp Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương, từ bờ đông mũi Hảo Vọng cực nam châu Phi đến bờ tây mũi Horn cực nam Nam Mỹ.
Cũng như các nước Tây Âu khác, thị trường Anh đặc biệt ưa chuộng các mặt hàng đặc sắc từ phương Đông như gia vị, hàng dệt may và đồ trang sức… - vốn đã được đưa về "đảo quốc sương mù" từ thời Thập tự chinh, theo chân những hiệp sĩ có mặt ở tận giao điểm của ba châu lục - Trung Đông.
Tuy nhiên, những chuyến hải hành đến Đông Ấn luôn ẩn chứa nhiều rủi ro, chẳng hạn như đụng độ vũ trang với các đoàn thương nhân cạnh tranh (từ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha - vốn đã chiếm được nhiều cơ sở quan trọng dọc bờ biển Ấn Độ từ trước, Pháp hay Hà Lan), hoặc bệnh dịch. Tỷ lệ sống sót ở xứ lạ của nhân viên công ty Đông Ấn cũng thấp một cách đáng kinh ngạc, chỉ 30%. Mặc dù vậy, vị thế độc quyền do Hoàng gia cấp vẫn đảm bảo cho các thương gia thành Luân Đôn không bị cạnh tranh trong nước, cũng như đảm bảo tỷ lệ hoàn vốn cho ngân sách triều đình, theo trang History.com.
Cũng chính trang nghiên cứu này khẳng định: Có thể nói, công ty Đông Ấn đã đóng vai trò quyết định với chế độ cai trị của thực dân Anh ở Ấn Độ trong thế kỉ XIX và XX. Và sự thành công rực rỡ của tập đoàn đa quốc gia đầu tiên trên thế giới cũng đã góp phần định hình nền kinh tế toàn cầu hiện đại, theo cả hai chiều hướng (tích cực và tiêu cực).
Lợi nhuận và nòng pháo hạm
Ở chiều hướng tích cực, hiển nhiên, sự ra đời của Công ty Đông Ấn Anh quốc thúc đẩy văn hóa tiêu dùng tại Anh nói riêng, cũng như tác động đến văn hóa tiêu dùng của toàn châu Âu nói chung. Đơn cử, trước khi có Công ty Đông Ấn, phần lớn trang phục ở Anh được dệt từ len và chủ yếu đảm bảo độ bền chứ không hướng tới thời trang. Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi khi hàng dệt bông giá rẻ, thêu dệt bắt mắt từ Ấn Độ tràn ngập thị trường Anh. Từ việc thúc đẩy thị trường tiêu dùng, cả guồng máy kinh tê ë- thương mại cũng nhờ đó mà tăng trưởng vượt bậc.
Vấn đề là, để bảo đảm lợi nhuận, ngay từ đầu, Công ty Đông Ấn Anh quốc đã thể hiện tất cả những mặt tối của "chủ nghĩa tư bản rừng rú". Đầu tiên và trên hết, những hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh quốc tại tiểu lục địa Ấn Độ mang đậm màu sắc lũng đoạn chính trị.
Khi đặt chân tới Ấn Độ, thương nhân người Anh cũng như các nước châu Âu đều phải cố gắng lấy lòng các nhà cầm quyền và nhà vua sở tại bằng những món quà hậu hĩnh, bao gồm cả đế chế Mughul hùng mạnh đang thống trị gần như cả Ấn Độ mênh mông. Dù bản chất chỉ là một doanh nghiệp, nhưng điều lệ hoàng gia và công tác tuyển mộ những nhân viên vô cùng thiện chiến đã khiến Công ty Đông Ấn Anh quốc lập tức thể hiện được sức nặng chính trị. Các tiểu vương Ấn Độ, trong vài trường hợp, thậm chí còn mời các giám đốc địa phương của Công ty tới cung điện, nhận hối lộ và "thuê mướn" lực lượng của Công ty, trong các cuộc nội chiến, hoặc trong những trường hợp cần chống lại các công ty thương mại của Pháp, Bồ Đào Nha hoặc Hà Lan.
Thời đó, Đế chế Mughul tập trung quyền lực chỉ ở trong nội địa Ấn Độ, bởi vậy các thành phố ven biển cũng cởi mở hơn với ảnh hưởng từ nước ngoài. Ngay từ đầu, một trong những lý do Công ty Đông Ấn cần rất nhiều vốn tích lũy là nhằm "chiêu binh mãi mã" đánh chiếm và xây dựng các tiền đồn thương mại kiên cố ở các thành phố cảng như Bombay, Madras hay Calcutta. Khi Đế chế Mughul sụp đổ vào thế kỷ 18, nội chiến nổ ra khiến nhiều thương nhân Ấn Độ di chuyển đến các "thị quốc" ven biển do công ty điều hành.
Vậy là, dưới danh nghĩa một doanh nghiệp thuộc Hoàng gia Anh, Công ty Đông Ấn Anh quốc thực sự cai trị những vùng lãnh thổ này, bằng hệ thống nhân viên của mình. Chỉ cần việc giao thương vẫn diễn ra suôn sẻ, hội đồng quản trị ở Luân Đôn sẽ không can thiệp. Và bởi có rất ít thông tin liên lạc giữa Luân Đôn và các văn phòng chi nhánh (một lá thư chuyển đi phải mất ba tháng mới tới nơi), các nhân viên chi nhánh còn có nhiệm vụ ban hành các bộ luật, đồng thời thành lập lực lượng cảnh sát và hệ thống luật pháp các cấp.
Để bảo đảm quyền lực chính trị cũng như quyền lợi kinh tế trước rất nhiều thách thức, việc sử dụng vũ lực là điều tất yếu phải xảy đến. Sau này, một thí dụ điển hình hay được nhắc tới: Cuộc chiến tranh nha phiến với triều đình nhà Thanh năm 1840, mà pháo hạm của đế quốc Anh gầm vang nhằm mở đường cho thuốc phiện mà Công ty Đông Ấn Anh quốc buôn bán tràn vào lãnh thổ Trung Quốc.
Song, từ rất lâu trước đó, trận chiến Plassey năm 1757 nổ ra giữa 50.000 binh lính Ấn Độ dưới quyền nhà cai trị Nawab xứ Bengal với 3.000 nhân viên của Công ty, đã thể hiện rõ tính chất sắt máu của một đế chế đích thực. Nawab vô cùng bất mãn với hành vi áp thuế của Công ty, song không ngờ rằng lãnh đạo quân sự của Đông Ấn là Robert Clive đã thực hiện một thỏa thuận ngầm với các chủ ngân hàng Ấn Độ, khiến phần lớn quân đội Ấn Độ từ chối chiến đấu tại Plassey. Do đó, lực lượng vũ trang Công ty Đông Ấn dễ dàng giành chiến thắng, và đem lại cho Công ty quyền áp thuế rộng rãi ở Bengal - một trong những tỉnh giàu có nhất Ấn Độ. Clive cũng cướp đoạt kho báu của Nawab và chuyển về Anh quốc.
Tóm lại, vào thời kỳ đỉnh cao, Công ty Đông Ấn Anh quốc là tập đoàn thương mại lớn nhất thế giới, thậm chí còn kiểm soát những vùng đất có quy mô lớn hơn không ít đất nước. Về bản chất, công ty cũng cai trị một phần lớn lãnh thổ Ấn Độ - một trong những nền kinh tế năng suất nhất thế giới thời bấy giờ. Và có thời điểm, Đông Ấn nắm trong tay một đội quân riêng gồm 260.000 binh sĩ, gấp đôi quân số thường trực của Anh. Lực lượng áp đảo này đủ để xua đuổi các thế lực cạnh tranh, chinh phục lãnh thổ, đủ sức ép các nhà cầm quyền Ấn Độ phải ký các điều khoản ưu đãi.
Có điều, "vật cực tất phản". Đến giữa thế kỷ XIX, tâm lý phản đối vị thế độc quyền của Công ty Đông Ấn đã lên đến đỉnh điểm tại Quốc hội Anh, và nó vô hiệu hóa dần dần, trước khi chính thức bị khai tử. Độc quyền thương mại của nó bị phá vỡ vào năm 1813, và từ năm 1834, nó chỉ còn là cơ quan quản lý của chính phủ Anh ở Ấn Độ. Vai trò này cũng bị tước bỏ nốt sau Cuộc binh biến Ấn Độ năm 1857. "Đại lý của chủ nghĩa đế quốc Anh" - theo cách dùng từ của Bách khoa thư Britannia - đã hoàn tất sứ mệnh.
Tuy nhiên, cái chết của Công ty Đông Ấn Anh quốc vào năm 1873 (hoàn toàn không còn tư cách pháp nhân) không hẳn chỉ là do sự phẫn nộ về những hành vi trái đạo đức, mà do sự thay đổi quan điểm của các chính trị gia và doanh nhân tại Anh. Họ nhận ra rằng có thể kiếm được nhiều tiền hơn, khi giao dịch với các đối tác có nền tảng kinh tế mạnh mẽ hơn.
* "Sự ra đời và vận hành của Công ty Đông Ấn Anh quốc cũng đã tạo được ảnh hưởng tới nhiều mô hình công ty hiện đại. Nó là công ty cổ phần lớn nhất và tồn tại lâu nhất vào thời bấy giờ nhờ huy động vốn bằng cách bán cổ phiếu cho công chúng. Bên cạnh chủ tịch, quyền kiểm soát công ty còn nằm trong tay một "ban điều hành", hay "hội đồng quản trị".
* "Sau khi Công ty Đông Ấn Anh quốc hiện hữu năm 1600, lần lượt các đối thủ ra đời: Công ty Đông Ấn Hà Lan (1602); Công ty Đông Ấn Đan Mạch (1616); Công ty Đông Ấn Bồ Đào Nha (1628); Công ty Đông Ấn Pháp (1664) và Công ty Đông Ấn Thụy Điển (1731), tuy nhiên không đối thủ nào hoạt động thành công như Công ty Đông Ấn Anh quốc.