Giải quyết 2 điểm nghẽn để khơi thông việc liên kết vùng
Ngành sản xuất nông nghiệp của TP Hồ Chí Minh chỉ đáp ứng khoảng 20-30% nhu cầu thực phẩm của người dân trên địa bàn, còn lại phải nhập từ các địa phương khác. Tuy nhiên, hiện nay giữa TP Hồ Chí Minh và các tỉnh chưa có sự liên kết vùng, không có thông tin chung về sản xuất và tiêu thụ, dẫn đến tình trạng “mạnh ai nấy làm” hoặc “được mùa mất giá”…
Dự kiến Tết Nguyên đán 2023, TP Hồ Chí Minh có nhu cầu tiêu thụ 370.000 tấn rau củ quả, 450.000 tấn thủy sản, 230.000 con lợn... Tuy nhiên, TP Hồ Chí Minh chỉ tự đáp ứng khoảng 20% sản lượng rau củ quả, còn lại nhập từ các tỉnh, nhiều nhất là Lâm Đồng với sản lượng đến 60%. Với mặt hàng thủy sản, thành phố cũng tự đáp ứng chỉ khoảng 15%, còn lại nhập từ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Thực tế cho thấy, từ trước đến nay việc cung ứng và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp giữa các địa phương có thế mạnh về sản xuất nguyên liệu và TP Hồ Chí Minh không theo một chuỗi liên kết. Các địa phương tự sản xuất những sản phẩm nào mà địa phương có ưu thế, còn TP Hồ Chí Minh thiếu sản phẩm nào thì tự tìm mua. Tình trạng này dẫn đến, các địa phương sản xuất nguyên liệu khó bán được hàng do nhu cầu thị trường không cao, còn TP Hồ Chí Minh cần nguồn hàng để mua thì các địa phương không đáp ứng được, dẫn đến tình trạng “được mùa mất giá” vẫn thường xuyên xảy ra trong thời gian qua.
Cũng chính vì mạnh ai nấy làm nên tại tỉnh Lâm Đồng, diện tích sản xuất rau củ quả theo các tiêu chuẩn an toàn, có chứng nhận chiếm tỷ lệ thấp, tỷ lệ nông sản tiêu thụ qua hợp đồng đạt khoảng 45%. Các doanh nghiệp (DN) chế biến, phân phối, bao tiêu sản phẩm khó có thể ký kết hợp đồng đơn lẻ với hàng trăm hộ nông dân với quy mô sản xuất và trình độ canh tác khác nhau.
Còn tại Đồng Tháp, ông Nguyễn Hữu Dũng - Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Đồng Tháp cho biết, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cao 10 - 20% (rau 15-20%, quả 10-15%), quy mô nhỏ, trang thiết bị, công nghệ chế biến chưa hiện đại, tỷ lệ rau quả đưa vào chế biến rất thấp (5-8%). Nguyên nhân là do chưa có nhà đầu tư đủ mạnh để đầu tư hệ thống nhà máy chế biến, kho vận, logistics...
Ngoài ra, do mối liên kết giữa các bên mua, bán thiếu bền vững, nên nhiều vùng nguyên liệu thiếu cơ sở thông tin dữ liệu để thực hiện việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm, xây dựng mã vùng trồng, chất lượng sản phẩm chưa ổn định... Việc mua bán chủ yếu qua trung gian, phụ thuộc rất lớn vào thương lái thu mua.
Bà Lý Kim Chi – Chủ tịch Hội Lương thực thực phẩm TP Hồ Chí Minh khẳng định: “Phát triển vùng nguyên liệu quy mô lớn tập trung trên cơ sở liên kết bền vững với các DN chế biến, tiêu thụ, là xu thế tất yếu của nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại. Theo đó, vùng nguyên liệu được xác định là điểm khởi đầu và là nền tảng để phát triển các chuỗi giá trị hiệu quả, bền vững. Điều quan trọng nhất nhằm xây dựng được vùng nguyên liệu bền vững là cần phải có sự gắn kết giữa người nông dân và DN chế biến, tiêu thụ sản phẩm”.
Để làm được điều này thì cần phải tháo gỡ 2 điểm nghẽn: Thứ nhất, cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung để kết nối các địa phương sản xuất nguyên liệu và TP Hồ Chí Minh. Dữ liệu này sẽ thể hiện, DN TP Hồ Chí Minh cần tiêu thụ nguyên liệu nào, số lượng bao nhiêu. Còn nơi sản xuất nguyên liệu thì sẽ biết là mình sản xuất mặt hàng nào, bán cho ai, sản lượng bao nhiêu? Khi cung – cầu “gặp nhau” thì sẽ giải quyết được tình trạng “được mùa mất giá” vẫn tồn tại trong suốt thời gian qua. Thứ hai là tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch đang ở mức rất cao tại các vùng nguyên liệu, khi khâu chế biến, dự trữ, bảo quản nông sản kém vì rất thiếu hệ thống kho lạnh. Theo thông kê, hiện ĐBSCL chỉ sở hữu khoảng 30% số lượng kho lạnh của khu vực phía Nam, hạ tầng logistics vừa thiếu vừa yếu khiến chi phí logistics rất cao, trong khi nông sản mang tính mùa vụ cao lại khó bảo quản để giữ phẩm cấp, chất lượng.
Để tháo gỡ 2 điểm nghẽn trên, bà Lý Kim Chi đề xuất TP Hồ Chí Minh kiến nghị Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đứng ra làm đầu mối xây dựng cơ sở dữ liệu chung giữa TP Hồ Chí Minh với các tỉnh thành thuộc “ Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông lâm sản đạt chuẩn giai đoạn 2022-2025” tại 13 tỉnh, thành. Đồng thời nghiên cứu có cơ chế hỗ trợ các DN TP Hồ Chí Minh mở rộng đầu tư phát triển vùng nguyên liệu của DN tại các tỉnh với vai trò là DN đầu ngành.
Về điểm nghẽn thứ 2, cần thúc đẩy hình thành và phát triển chuỗi kho lạnh, kho bảo quản. Đề nghị TP Hồ Chí Minh bố trí quỹ đất phù hợp, có thể liên kết với các tỉnh về việc này, có các chính sách hỗ trợ về tiền thuê đất, lãi vay, quy trình cấp phép... đối với các dự án kho lạnh.