Vốn FDI đầu tư mới tiếp tục tăng mạnh
Mặc dù từ đầu năm đến nay, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta vẫn trong xu hướng giảm so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên dấu hiệu tích cực là mức giảm ngày càng thu hẹp.
Đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong 7 tháng đã có mức tăng trưởng so cùng kỳ sau khi giảm liên tục trong 6 tháng; vốn đầu tư mới tăng mạnh hơn so các tháng đầu năm; vốn đầu tư thực hiện của các dự án giữ đà tăng nhẹ 0,8%,... là những dấu hiệu cho thấy thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang được cải thiện.
Nhà đầu tư tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) 7 tháng năm 2023 đạt gần 16,24 tỷ USD, tăng 4,5% so cùng kỳ. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 11,58 tỷ USD, tăng nhẹ 0,8%. Đáng lưu ý trong hoạt động thu hút vốn FDI là tổng vốn đầu tư đăng ký lần đầu tiên tăng trở lại so cùng kỳ sau chuỗi giảm liên tục trong 6 tháng đầu năm (tăng 4,5%). Mức tăng vốn đầu tư mới tiếp tục tăng mạnh hơn so các tháng đầu năm. Số dự án đầu tư mới cũng tăng mạnh so cùng kỳ. Tốc độ tăng số dự án mới lớn gần gấp 2 lần tốc độ tăng tổng vốn đầu tư.
Cụ thể, tổng vốn FDI đăng ký 7 tháng năm 2023 đã cải thiện rất nhiều so với mức giảm 7,1% của cùng kỳ 2022, được thể hiện qua những tín hiệu tích cực như sau: Vốn đăng ký cấp mới có 1.627 dự án với số vốn đạt 7,94 tỷ USD, (chiếm 48,9% tổng vốn đăng ký) tăng 75,5% về số dự án và tăng 38,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn 4,14 tỷ USD (chiếm 25,5% tổng vốn đăng ký), tăng mạnh 60,7%. Riêng chỉ có vốn đăng ký điều chỉnh với số vốn đầu tư tăng thêm 4,16 tỷ USD (chiếm 25,6% tổng vốn đăng ký), giảm 42,5% nhưng số lượt dự án tăng vốn lại tăng 27,1% so với cùng kỳ.
Mức tăng, giảm chi tiết này khẳng định niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đối với chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường đầu tư của Việt Nam an toàn nên vẫn thu hút các nhà ĐTNN quyết định đến đầu tư và mở rộng dự án hiện hữu tại Việt Nam.
“Tốc độ tăng số dự án mới (tăng 75,5%) lớn hơn tốc độ tăng tổng vốn đầu tư mới (tăng 38,6%) cho thấy các nhà ĐTNN quy mô vừa và nhỏ tiếp tục quan tâm, tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam và đưa ra các quyết định đầu tư mới. Trong khi các tập đoàn lớn hiện đang cẩn trọng, xem xét kỹ việc tiếp tục đầu tư lớn vào Việt Nam trong bối cảnh tác động của chính sách thuế tối thiểu toàn cầu có hiệu lực từ năm 2024”, bà Phí Thị Hương Nga, Vụ trưởng Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng, Tổng cục Thống kê nhìn nhận.
Để có mức tăng này, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài Đỗ Nhất Hoàng cho rằng, là do cả hệ thống chính trị; đặc biệt là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kịp thời, linh hoạt với các giải pháp tháo gỡ, khó khăn cho doanh nghiệp (DN). Cùng với đó, các bộ, ngành, địa phương đã nắm bắt được những khó khăn; đồng thời, tháo gỡ kịp thời, từ đó tạo niềm tin cho các DN để các DN mở rộng đầu tư; giải ngân đầu tư. Nhờ đó, các nhà đầu tư nước ngoài rất tin tưởng về môi trường đầu tư của Việt Nam.
Thu hút FDI sẽ khởi sắc trong thời gian tới
Ông Đỗ Nhất Hoàng cho biết, hiện, vị trí của Việt Nam trên các bảng xếp hạng đã có những bước tiến bộ đáng kể. Nhiều tổ chức uy tín quốc tế đánh giá cao kết quả và triển vọng phát triển kinh tế, nâng hạng tín nhiệm và dự báo tích cực tăng trưởng GDP của Việt Nam. Theo Kết quả khảo sát năm 2022 do Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) thực hiện với các DN Nhật Bản tại Việt Nam: 60% DN sẽ mở rộng kinh doanh tại Việt Nam trong 1-2 năm tới, cao nhất trong khối ASEAN; Việt Nam có lợi thế về tiềm năng tăng trưởng cao, DN có thể tăng doanh thu nhờ mở rộng thị trường, tăng xuất khẩu; 56,5% DN sẽ xem xét thúc đẩy mức độ thu mua nội địa hóa tại Việt Nam cao hơn, đồng thời tiếp tục tăng cường đầu tư cho thiết bị, thúc đẩy tự động hóa, số hóa nhằm tiết kiệm nhân lực, tối ưu hóa chi phí sản xuất…
Còn theo khảo sát tháng 1/2023 về môi trường kinh doanh của Hiệp hội DN châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), Việt Nam được đánh giá thuộc top 5 điểm đến đầu tư toàn cầu. Vừa qua, trong Báo cáo Hạnh phúc thế giới, Việt Nam đã tăng 12 bậc, đứng thứ 65/137 quốc gia. Đây là minh chứng rõ ràng nhất cho sự ủng hộ, tin tưởng của cộng đồng DN vào những quyết sách, giải pháp của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong thời gian qua.
Để thu hút dòng vốn FDI có chất lượng trong thời gian tới trong bối cảnh xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia có dấu hiệu chậm lại, bà Phí Thị Hương Nga cũng cho rằng, Việt Nam cần thực thi nhiều giải pháp hiệu quả. Trong đó, tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện thể chế, tiếp tục cắt giảm thực chất điều kiện kinh doanh; rà soát, sửa đổi cơ chế chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư nước ngoài trong bối cảnh áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu. Chính phủ có các chính sách phù hợp nhằm đẩy mạnh quá trình triển khai nguồn vốn FDI thực hiện tại Việt Nam. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư.
“Việt Nam cần chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện cần thiết để thu hút đầu tư như rà soát, bổ sung quỹ đất sạch; rà soát lại quy hoạch điện; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; bổ sung chính sách để phát triển công nghiệp hỗ trợ; xây dựng các quy định, tiêu chuẩn như một bộ lọc mới nhằm lựa chọn các nhà đầu tư FDI có công nghệ tiên tiến, có khả năng chống chịu sức ép từ bên ngoài để phát triển bền vững và bảo đảm an ninh quốc gia. Chủ động, theo dõi, đánh giá xu hướng dịch chuyển dòng FDI vào Việt Nam để có những điều chỉnh chính sách phù hợp trong việc thu hút dòng vốn FDI có chất lượng”, bà Nga nhấn mạnh.
Đồng thời, chủ động triển khai các chiến dịch vận động xúc tiến đầu tư, khẳng định Việt Nam là điểm đến đầu tư an toàn, tin cậy. Chủ động kết nối, làm việc với các tập đoàn lớn của thế giới để trao đổi, chia sẻ các cơ hội đầu tư tại Việt Nam.
Về triển vọng thu hút đầu tư vào nước ta thời gian tới, ông Đỗ Nhất Hoàng cho rằng, điều cần thiết nhất với các doanh nghiệp FDI chính là nhân lực. Thế mạnh của Việt Nam là có nguồn nhân lực có năng suất lao động cao so với chi phí nhân công. Việt Nam cũng đang xây dựng các chương trình đào tạo nhằm nâng cao tay nghề kỹ thuật và năng suất lao động của nguồn nhân lực; đặc biệt, sẽ chuyển đổi sang đào tạo dựa trên nhu cầu thực chất của DN, đào tạo có tính ứng dụng cao thay vì mô hình đào tạo như trước đây.
Cùng đó, “với những nỗ lực, tích cực cải thiện môi trường đầu tư, cũng như cải thiện các điều kiện về cơ sở hạ tầng, các chính sách phù hợp… các nhà đầu tư nước ngoài đang tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam. Với tinh thần đó, tôi nghĩ rằng, trong thời gian tới, thu hút đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam sẽ có những khởi sắc tích cực”, ông Hoàng nói.