Những "mưu ma chước quỷ" của Trương Mỹ Lan và đồng phạm để phát hành "khống" 25 gói trái phiếu
Cơ quan CSĐT, Bộ Công an đã làm rõ những thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt 30.869.138.800.000 đồng trong việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ của Trương Mỹ Lan, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Vạn Thịnh Phát và các đồng phạm.
Phát hành trái phiếu “khống” lừa bán cho các nhà đầu tư
Theo Kết luận của Cơ quan CSĐT, năm 2018, Ngân hàng SCB trong tình trạng bị các Cơ quan quản lý thanh tra, kiểm tra.
Việc xin cấp tín dụng từ Ngân hàng SCB gặp nhiều khó khăn, kèm theo tình hình nợ xấu kéo dài nên khoảng tháng 8/2018, Trương Mỹ Lan, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Vạn Thịnh Phát (VTP) đã họp với Đinh Văn Thành, Chủ tịch HĐQT, Võ Tấn Hoàng Văn, Tổng Giám đốc, Nguyễn Phương Hồng, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng SCB, Nguyễn Tiến Thành, Chủ tịch, Tổng Giám đốc Công ty Chứng khoán TVSI và Hồ Bửu Phương, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn VTP để ra chủ trương sử dụng Công ty An Đông và các Công ty khác phát hành trái phiếu riêng lẻ huy động tiền từ người dân để xử lý khó khăn tài chính cho Ngân hàng SCB.
Trên cơ sở đó, các nhân sự chủ chốt của Ngân hàng SCB, Công ty Chứng khoán TVSI, Tập đoàn VTP và tổ chức phát hành đã họp bàn, lên phương án tạo lập trái phiếu và thông qua Công ty Chứng khoán TVSI và Ngân hàng SCB phát hành và chào bán cho người dân với lãi suất cao hơn lãi suất gửi tiết kiệm tại Ngân hàng SCB.
Thực hiện chủ trương của Trương Mỹ Lan, từ năm 2018 đến năm 2020, các đối tượng có liên quan tại Công ty Chứng khoán TVSI, Ngân hàng SCB và Tập đoàn VTP đã sử dụng 4 Công ty phát hành 25 mã trái phiếu “khống”, không có tài sản đảm bảo, gồm: Công ty An Đông (3 mã năm 2018, 2019), Công ty Quang Thuận (1 mã năm 2018), Công ty Sunny World (1 mã 2018) và Công ty Setra (20 mã năm 2020) với tổng khối lượng 308.691.388 trái phiếu, để lừa bán cho các nhà đầu tư, thu về 30.869.138.800.000 đồng.
Tiền thu được từ hoạt động bán trái phiếu không sử dụng đúng mục đích phát hành trái phiếu là đầu tư vào các dự án kinh tế để sinh lời, đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả gốc và lãi cho các trái chủ mà các đối tượng đã rút tiền và sử dụng toàn bộ số tiền huy động được từ bán trái phiếu cho các mục đích khác dẫn đến không có đủ nguồn tiền để đảm bảo chi trả gốc và lãi đến hạn cho các trái chủ. Tính đến thời điểm khởi tố vụ án ngày 7/10/2022, 4 Công ty nêu trên còn dư nợ 30.081.509.700.000 đồng của 35.824 trái chủ, không có khả năng thanh toán.
Lắt léo những “mưu ma chước quỷ”
Kết quả điều tra và tài liệu chứng cứ, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã thu thập có đủ căn cứ chứng minh phương thức thủ đoạn gian dối của các đối tượng trong việc tạo lập trái phiếu của 4 Công ty An Đông, Quang Thuận, Sunny World và Setra.
Cụ thể, Trương Mỹ Lan và các đồng phạm đã thành lập Công ty “ma” (không có bộ máy nhân sự, hoạt động thực tế), thuê người đứng tên thành lập Công ty, sở hữu cổ phần, tài sản, khoản vay, ký khống tài liệu … phục vụ cho các hoạt động tài chính của Tập đoàn.
Việc thành lập các “Công ty ma” cho Tập đoàn VTP do Văn phòng HĐQT phụ trách, phối hợp với Nguyễn Ngọc Dương, Tổng Giám đốc và Nguyễn Phương Anh, Phó Tổng giám đốc Công ty SPG thực hiện.
Nguyễn Ngọc Dương chỉ đạo đám đàn em ở các công ty có liên quan tìm kiếm, thuê người và cung cấp thông tin, soạn thảo hồ sơ thành lập những “công ty ma” tại Sở KH&ĐT TP Hồ Chí Minh. Các “Công ty ma” sau khi được thành lập được phục vụ cho các hoạt động tài chính của Tập đoàn VTP như vay vốn, phát hành trái phiếu, mua bán/chuyển nhượng cổ phần, tài sản…
Với phương thức này, ghi nhận đến thời điểm khởi tố vụ án (ngày 7/10/2022), Tập đoàn VTP đã có 1.470 Công ty (bao gồm 46 Công ty nước ngoài và một số ít công ty do Trương Mỹ Lan mua lại) và gần 1.800 cá nhân để đứng tên thành lập doanh nghiệp, đứng tên khoản vay, cổ phần, tài sản, ký khống tài liệu, chứng từ.
Sau khi được thành lập, các “công ty ma” sẽ được lựa chọn, đưa vào sử dụng cho các hoạt động tài chính của Tập đoàn VTP, trong đó đã xác định được: 656 Công ty được sử dụng để vay tiền SCB, trong đó hiện còn 435 Công ty còn dư nợ gốc và lãi, đều thuộc nợ nhóm 5, không có khả năng thu hồi. Có 85 công ty được thành lập để chuyển tiền từ Việt Nam đi nước ngoài và 63 công ty nhận tiền từ các công ty nước ngoài chuyển về Việt Nam thông qua Ngân hàng SCB (trong đó có 23 công ty có sai phạm trong việc chuyển tiền quốc tế, được chứng minh ở giai đoạn 2).
Có gần 50 công ty được sử dụng để tạo lập, phát hành trái phiếu và hàng trăm công ty khác được thành lập cho các mục đích khác như mua tài sản, đứng tên dự án, cơ cấu lại sở hữu cổ phần giữa các công ty, chuyển nhượng cổ phần, tài sản cho các cá nhân theo mục đích của Trương Mỹ Lan.
Việc tạo dựng một số lượng lớn công ty “ma”, cá nhân đứng tên còn là tiền đề cho việc thực hiện thủ thuật tài chính thường gọi tại Tập đoàn VTP là “Giải quỹ” (đã được điều tra, kết luận ở vụ án Giai đoạn 1), thực chất là cho các Công ty chuyển tiền cho các cá nhân dưới hình thức “hứa chuyển nhượng cổ phần” của các Công ty ma thuộc Tập đoàn với mức đơn giá cổ phần được nâng khống lên nhiều lần tùy vào quy mô và tài sản của các Công ty; làm căn cứ chuyển tiền và rút tiền ra khỏi hệ thống Ngân hàng SCB mà không làm phát sinh thuế theo quy định của pháp luật.
Ứng dụng của thủ thuật “Giải quỹ” được sử dụng chính cho việc rút tiền (dòng tiền thật) từ các khoản giải ngân của Ngân hàng SCB nhằm “cắt đứt” dòng tiền, “che giấu” mục đích sử dụng tiền, ngoài ra còn được sử dụng khi cần chạy “kỹ thuật” các dòng tiền “khống” trong quá trình tạo lập trái chủ sơ cấp cho các gói trái phiếu của các Công ty phát hành hay rút tiền từ nước ngoài chuyển về…
Trương Mỹ Lan cũng là người ra chủ trương phát hành trái phiếu, lựa chọn tổ chức phát hành, trái chủ sơ cấp, chạy dòng tiền “khống” để tạo lập 25 gói trái phiếu “khống” bán cho các nhà đầu tư để chiếm đoạt, sử dụng.
Kết quả điều tra xác định, toàn bộ các giao dịch nộp/rút tiền mặt/chuyển tiền tại Ngân hàng SCB liên quan đến dòng tiền 30.869.138.800.000 đồng nêu trên đều là khống, không có tiền mặt nộp/rút thực tế mà chỉ đi lệnh dòng tiền để cân đối sổ quỹ tiền mặt hàng ngày tại Ngân hàng SCB CN Sài Gòn, Bến Thành theo phương án đi lệnh.
Thông qua các hợp đồng hợp tác, mua bán trái phiếu, cổ phần, các đối tượng thao túng, sử dụng hệ thống, nguồn lực, nhân sự, quy trình làm việc của Công ty Chứng khoán TVSI và Ngân hàng SCB làm công cụ để bán sản phẩm trái phiếu đến người dân và thu tiền về để sử dụng hết tiền vốn trái phiếu vào các mục đích khác, không đúng mục đích theo phương án phát hành.
Khi đã phát hành xong trái phiếu doanh nghiệp, thủ đoạn rút tiền và “cắt đứt”, che giấu dòng tiền để sử dụng của Trương Mỹ Lan và các bị can cũng rất tinh vi. Sau khi Công ty Chứng khoán TVSI chuyển tiền về, các đối tượng đã thực hiện giao dịch rút tiền để sử dụng tại Ngân hàng SCB Chi nhánh Sài Gòn, Bến Thành bằng 2 hình thức rút tiền mặt trực tiếp và cho các cá nhân được thuê đứng tên ký chứng từ rút tiền mặt, nộp tiền mặt vào các tài khoản chỉ định, sau đó, tiếp tục đi lệnh chuyển tiền vào các tài khoản để sử dụng cho các mục đích.
Bằng phương thức thủ đoạn nêu trên, các đối tượng đã che giấu được dòng tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu cũng như những tổ chức/cá nhân hoặc tài khoản được thụ hưởng tiền bán trái phiếu.
Như vậy, với chuỗi hành vi, thủ đoạn liên tiếp nêu trên, các đối tượng đã hoàn thành hành vi gian dối trong hoạt động phát hành 25 gói trái phiếu “khống” của 4 Công ty An Đông, Quang Thuận, Sunny World và Setra, bán cho nhà đầu tư, thu về tổng số tiền 30.869.138.800.000 đồng để sử dụng, đến nay còn dư nợ 30.081.509.700.000 đồng của 35.824 trái chủ và không có khả năng thu hồi. Hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đã hoàn thành kể từ khi các Công ty trái chủ sơ cấp nhận được tiền bán trái phiếu cho các nhà đầu tư thứ cấp.