"Trầu cau" - lấp lánh những ánh hồi quang!
"Sự tích cau" của Trung Quốc kể con gái vua Viêm Đế tên Tân chẳng may có người chồng bị ma quỷ sát hại rồi chôn xác dưới một tảng đá trên núi Côn Lôn. Từ nơi này mọc lên một rừng cau. Người vợ tìm đến hái quả, đặt vào cái túi đeo bên mình để tưởng niệm chồng. Từ đó thành tục ăn quả cau để xua ma trừ tà.
Rất có thể truyện tiếp biến sang Việt Nam, giữ tên nhân vật người vợ (Tân), thêm tên nhân vật mới (Lang - người chồng), biến đổi cốt truyện, hư cấu thêm tình tiết để thành "Sự tích trầu cau".

Các nước Việt Nam, Philippines, Lào, Indonesia, Myanmar... đều có "Sự tích trầu cau" giống nhau về cốt truyện. 3 nhân vật đều chết rồi biến thành cây cau, tảng đá, giàn trầu. Sự tích của Philippines, Indonesia gần với sự tích của Đài Loan (Trung Quốc) miêu tả một tình yêu trái ngang em chồng - chị dâu. Ở Myanmar có nơi chỉ "ăn trầu" không có cau, quét lên lá trầu một lớp vôi loãng, rắc thêm mấy sợi thuốc lào rồi cuốn lại. "Sự tích trầu" của Myanmar không có gì đặc biệt, cũng quan niệm đó là một loại "cây thiêng" gần gũi, có ích, đuổi tà yêu giúp người. Ở Trung Quốc thì khác, một vài vùng chỉ có "Sự tích cau", ý nghĩa cũng tương tự với "trầu" của Myanmar nhưng chức năng chữa bệnh trội hơn. Ở một vài dân tộc phía Nam sông Dương Tử có "Sự tích trầu cau" gần giống Việt Nam nhưng thiên về việc giải thích tập tục ăn trầu.
Mô-típ truyện "Trầu cau" có mặt ở hầu khắp các miền đồng bằng và trung du châu Á, vươn sang tới Đông Phi... Hầu như ở đâu có cây cau, cây trầu, ở đó có truyện mang "sự tích trầu cau" hoặc theo các chủ đề gần gũi. Hiện có khoảng 10% dân số trên thế giới "ăn trầu". Người Indonesia tự hào có tập tục này đã hàng ngàn năm. Ngày nay khoa học chứng minh hiện tượng "say trầu" là do chất arecolin trong hạt cau có tác dụng kích thích hệ tuần hoàn và hệ thần kinh làm hưng phấn mạnh mẽ nhưng cũng dễ tạo ảo giác. Chất polyphenol trong lá trầu có tác dụng kháng khuẩn. Ở Việt Nam vẫn còn lưu truyền bài chữa bệnh dân gian lá trầu đun sôi lấy nước để rửa mắt bị đau.
Cây trầu lại rất nhạy cảm với từ trường sinh học của vùng đất nơi nó sinh sống. Sự nhạy cảm ấy biểu hiện ra trên đường vân của lá. Không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước khác (Myanmar, Lào) có tục "bói trầu", bằng cách xem lá trầu để suy đoán việc tương lai. Đây thuộc về quan niệm truyền thống, tập quán,... Chỉ biết cây cau, cây trầu trở thành "cây thiêng" trong nhiều nền văn hóa châu Á. Ở Việt Nam có tục ngữ "Chuối sau cau trước" tức trồng chuối sau nhà, trồng cau trước nhà, ngoài ý nghĩa thực tế, cau trước nhà thì mát mẻ, thoáng đãng, tiện hứng nước mưa cho chảy vào chum vại, lại tiện trèo hái quả. Còn là ý nghĩa tâm linh, cây cau cao vút như "cây nêu" xua tà đuổi quỷ...
Cũng là một nét tự nhiên, ở đâu con người quá yêu thứ gì đó, theo thời gian thứ đó sẽ trở thành huyền thoại. Nhất là ở thời viễn cổ, con người chịu sự chi phối nặng nề của quy luật tự nhiên. Nằm trong chức năng nhận thức của văn hóa, huyền thoại trở thành công cụ cắt nghĩa, lý giải phong tục. Huyền thoại "trầu cau" ở hầu khắp các nước đều có chức năng giải thích tục ăn trầu. Do sự quy định của quan niệm, tập quán, tính cách nên mỗi nơi lại được khúc xạ để tạo ra các ánh sáng ý nghĩa khác nhau. Bởi thế, không nên nói ở đâu hay hơn, chỉ nên nói khác hơn. Điều này phù hợp với tinh thần đối thoại văn hóa của triết học đương đại là tôn trọng sự khác biệt, mỗi nét văn hóa đều mang ý nghĩa riêng.
Đã thành quy luật phổ quát trong giao lưu tiếp biến là một hình tượng có thể gieo hạt, nảy mầm ở nhiều mảnh đất văn hóa, để rồi trở thành cổ mẫu/mẫu gốc hay mô-típ quen thuộc. Người Việt xưa hay "ăn trầu", đến mức lấy việc này làm thước đo thời gian (giập bã trầu). "Ăn trầu" nhưng đúng ra là "nhai trầu" vì chỉ nhai chứ không nuốt, tức không phải "ăn" cũng chẳng phải "uống". Nhưng, cứ gọi là "ăn" vì động từ này quá quen thuộc trong trường quan niệm "dĩ thực vi tiên", lấy ăn làm đầu, thành ra không "ăn" nhưng là việc thường xuyên nên gọi luôn là "ăn": ăn mặc, ăn nằm, ăn nói, ăn tiêu... và ăn trầu. Nếu thống kê có thể kể ra hàng trăm thành ngữ, tục ngữ, ca dao nói về trầu cau... Có thể do sinh sống ở xứ nóng nhưng mùa đông thì rất lạnh nên người ta ăn trầu cho ấm. Phải chăng, những việc liên quan đến "trầu cau" cũng dần chuyển vào mùa lạnh (đông, xuân): cưới xin, cúng tế, lễ hội, giỗ chạp...?

"Sự tích trầu cau" ở Việt Nam ngoài sự giải thích một tập tục còn thêm ý nghĩa mới là cắt nghĩa phong tục hôn nhân. Nó trở thành bài ca ca ngợi tình cảm gia đình ấm áp, thiêng liêng, tình anh em keo sơn gắn bó, tình vợ chồng thắm thiết thủy chung. Khi bị người anh hiểu lầm, người em bỏ đi và chết trong nỗi tủi thân, cô quạnh, chàng biến thành hòn đá lặng câm, không biết tỏ cùng ai.
Thì ra, bi kịch lớn nhất của con người là không được thấu hiểu, không được chia sẻ và chẳng chia sẻ được với ai. Người anh chết trong nỗi ân hận nên cố vươn cao để tìm em mà biến thành cây cau. Người vợ chết trong nỗi nhớ mong chồng và em mà biến thành giàn trầu, cố nương vào tảng đá, cố bám vào cây cau mà vươn lên để trông ngóng cho rõ hơn...
3 hình tượng mang 3 ý nghĩa độc lập nhưng thống nhất trong một ý nghĩa chung của "miếng trầu" - biểu tượng của tình yêu "miếng trầu nên duyên", biểu tượng của nghĩa tình sau trước "miếng trầu nên nghĩa". “Sự tích trầu cau" là một bi kịch nhưng là "bi kịch lạc quan" giàu giá trị thẩm mỹ.
Nhiều nhà dân tộc học và nhân chủng học còn coi "Sự tích trầu cau" ở Đông Nam Á phản ánh quá trình chuyển biến từ chế độ tạp hôn sang chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Trong quá trình "chuyển giao" ấy tất nảy ra những bi kịch và được văn học "văn bản hóa" thành câu chuyện đậm tính huyền thoại. Nó trở thành một mẫu gốc sản sinh ra biết bao những văn bản được thêu dệt bởi những sắc màu ngôn ngữ.
Xin giới thiệu một truyện khác của Đài Loan để thêm sự so sánh. Truyện kể ở vùng núi Hằng Xuân có một cặp anh em song sinh giống nhau. Một lần đi săn, họ cứu được một cô gái xinh đẹp khỏi bị gấu tấn công. Hai anh em cùng thầm yêu và muốn lấy cô gái làm vợ. Người em nhường anh. Đêm nọ, chàng rời nhà bỏ đi, không may sẩy chân, rơi xuống vực. Người anh tìm đến, không thấy em bèn nhảy xuống vực tự sát. Dưới vực hiện ra một tảng đá lớn và một cây cau. Người con gái tìm đến cũng đau khổ mà quyên sinh. Thân cô biến thành cây trầu, bám vào tảng đá, quấn lấy cây cau. Truyện này gần với truyện của ta, thiên về ca ngợi tình nghĩa anh em. Khác với truyện Việt Nam ca ngợi tình nghĩa cả vợ chồng và anh em.
Rõ ràng, trong tiếp biến văn hóa không có nước lớn, nước nhỏ, truyện hay, truyện dở, mà chỉ có sự sâu sắc, khác biệt mà thôi. Từ tác phẩm/hình tượng luôn lấp lánh tỏa ra những ánh hồi quang văn hóa mang hình bóng cuộc sống, tập quán, phong tục, tâm hồn, tính cách của cộng đồng từ thời xa xưa rọi về!
Không chỉ tiếp biến thuận, tức cùng đi theo mô-típ, có trường hợp chỉ mượn hình tượng để gửi một mục đích nghệ thuật khác xa với nghĩa ban đầu, tức tiếp biến nghịch. Đó là trường hợp một bài ca dao Việt: "Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân/ Nay anh học gần, mai anh học xa/ Anh lấy em từ thuở mười ba/ Đến năm mười tám em đà năm con/ Ra đường người nghĩ còn son/ Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng/ Cái cả đã biết dọn hàng/ Cái hai đi học về tràng khoa thi/ Cái ba buôn bán trăm nghề/ Còn hai con nhỏ trở về ăn chơi/ Chơi cho nước Hán sang Hồ/ Nước Tần sang Sở, nước Ngô sang Lào/ Chơi cho sấm động mưa rào/ Một trăm cái núi lọt vào trôn kim/ Chơi cho bong bóng thì chìm/ Hòn đá thì nổi, gỗ lim bập bềnh".
Trừ 3 câu đầu, nội dung còn lại đậm tinh thần trào phúng với hình ảnh mang tính chất ngoa dụ, khoa trương. 5 năm đẻ 5 con là nói quá. Các hình ảnh theo lối tăng cấp cứ tăng dần cái nghịch lý: trẻ con mà "biết dọn hàng", biết "về tràng khoa thi", "buôn bán trăm nghề",... "hòn đá thì nổi, gỗ lim bập bềnh". Tại sao tiếng cười này lại lấy điểm tựa cảm xúc là "quả cau nho nhỏ..."? Vì quả cau tượng trưng cho hôn nhân, mà hôn nhân như "anh" và "em" thì...? Phải chăng, đây là tiếng cười nhại phong tục: Vì cái "quả cau nho nhỏ", nho nhỏ về tinh thần, hay nho nhỏ về vật chất... mà ra nông nỗi này?