Chân dung một ông Tây xứ Nghệ

14:32 19/09/2021

Nếu được phép “tóm gọn” con người của PGS, TS, thi sĩ Trương Đăng Dung – nguyên Phó viện trưởng Viện Văn học - chỉ bằng một câu, một câu thôi, thì người viết bài này sẽ chẳng ngần ngại mà nói rằng: đó là một ông Tây người Nghệ An hiện đang sống ở thủ đô Hà Nội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thì đúng là như thế. Trương Đăng Dung là người Nghệ An chính hiệu. Sau hàng vài chục năm ăn bơ sữa Tây và uống nước máy Hà Nội, cái giọng Nghệ của ông đến nay cũng chỉ nhạt đi phần nào, ai tinh ý vẫn có thể qua giọng nói mà nhận ra ông đích thị là dân “cá gỗ”.

Năm 1972, 18 tuổi, Trương Đăng Dung mới lần đầu tiên từ xứ Nghệ đặt chân lên đất thủ đô, một tháng thôi, để làm thủ tục sang Hungary học khoa Ngữ văn Đại học Eotvos Lorand Budapest. Năm 1978, ông tốt nghiệp đại học, về nước và làm việc tại Viện Văn học. Năm 1981 ông trở lại Hungary làm nghiên cứu sinh và bảo vệ luận án tiến sỹ tại Viện Hàn lâm khoa học Hungary vào năm 1984.

Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Trương Đăng Dung (trái) và tác giả bài viết.

Năm 1991 Trương Đăng Dung trở lại Hung lần nữa để tu nghiệp, đến năm 1994 thì về hẳn. Ba lần sống ở Hung, thời gian cộng lại đã lên đến 15 năm – quãng thời gian không hề ngắn đối với một đời người – liệu đã đủ để biến một anh chàng Việt Nam đầy căn cốt tiểu nông trở thành một quý ông Châu Âu lịch lãm?

Theo tôi, nếu tôi không quá duy tâm chủ nghĩa, điều này tùy thuộc vào… phúc phận của mỗi người: là thiếu với rất nhiều người – dù có ngồi trên núi vàng, họ cũng phải cần tới mấy kiếp để làm được chuyện đó – và thừa với một số người khác – họ thích ứng rất nhanh với những giá trị đã trở thành tinh hoa văn hóa. Trương Đăng Dung thuộc về trường hợp thứ hai. Cái mà tôi gọi là “chất Tây” ở Trương Đăng Dung, chính là thế.

Nếu như ngày xưa, ở bên Trung Hoa, đức Khổng Tử luôn kiên quyết rằng: “Chiếu trải không ngay ngắn không ngồi, thịt thái không vuông vắn không ăn”, thì Trương Đăng Dung cũng có cái nét na ná như vậy trong sinh hoạt thường nhật.

Cách mặc, cách ăn của ông đều hết sức chỉn chu, chỉn chu đến mức dường như nó đã trở thành một nguyên tắc sống: không cần quá sang trọng nhưng cũng không thể thiếu sự lịch lãm. Trang phục bao giờ cũng phải tề chỉnh, áo quần là thẳng nếp, nếu là áo chemise thì phải bỏ trong quần, giày lúc nào cũng phải được đánh bóng. Ngồi ăn cùng Trương Đăng Dung mới thấy ông “sành” và kỹ tính: Loại rượu nào dùng với loại đồ ăn nào và phải được uống bằng loại ly cốc nào, khăn ăn được sử dụng ra sao v.v… tất cả đều có chuẩn mực của nó và chuẩn mực ấy cần phải được tuân thủ nghiêm túc.

Với chính bản thân mình, tôi tin chắc cái cung cách đó ở Trương Đăng Dung là do ông được “tập nhiễm” từ những năm tháng sống giữa lòng thủ đô của đế quốc Áo – Hung xưa, nơi thực sự có một giai cấp quý tộc đúng nghĩa đã tồn tại hàng thế kỷ, những con người, may mắn thay, có điều kiện hưởng thụ cuộc sống và rất biết hưởng thụ cuộc sống theo cách biến sự hưởng thụ ấy thành một nghệ thuật.

Tuy nhiên cách ăn cách mặc chỉ là câu chuyện về hình thức bề ngoài. Điều quan trọng hơn mà Trương Đăng Dung đã “tập nhiễm” được từ văn hóa Châu Âu, đó chính là sự nghiêm túc trong lao động, ở đây là lao động khoa học và lao động nghệ thuật, và quan niệm về các giá trị của con người cũng như quan niệm về các giá trị của đời sống.

Vế thứ nhất xem ra tương hợp với sự ham học, thậm chí là khổ học, vốn đã trở thành niềm tự hào của con người xứ Nghệ trong Trương Đăng Dung. Ông học, đọc, và làm việc miệt mài. Cứ nhìn vào kết quả công việc thì sẽ thấy ngay. Về tác phẩm nghiên cứu, ông là người chủ biên công trình “Các vấn đề của khoa học văn học”, là tác giả của tập tiểu luận – phê bình “Từ văn bản đến tác phẩm văn học”, và chuyên luận “Tác phẩm văn học như là quá trình” (Chính từ những công trình này mà nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy mới có thể có bình luận về Trương Đăng Dung: Làm lý luận, Trương Đăng Dung thích thứ lý luận thuần túy, làm việc với các ý tưởng để sản sinh ra ý tưởng. Lý luận văn học của anh, vì thế, gần với triết học hoặc đi ra từ triết học). Về tác phẩm dịch, ông là người đã dịch “Truyện Kiều” sang tiếng Hungary trong quãng thời gian làm nghiên cứu sinh bên nước bạn (1981- 1984); dịch “Lâu đài” – cuốn tiểu thuyết “khét tiếng” thế giới của Franz Kafka; dịch hai công trình triết – mỹ học vào loại đọc đến… “vỡ đầu” của M. Heidegger (Trên đường đến với ngôn ngữ) và của G. Lukacs (Nghệ thuật và chân lý khách quan).

Về vế thứ hai, có thể nói rằng nó được biểu hiện rõ nét nhất trong  thơ ông. (Cho đến tận năm 2011, Trương Đăng Dung mới in tập thơ đầu tiên: “Những kỷ niệm tưởng tượng” (NXB Thế Giới), dù ông đã làm thơ từ trước đó rất lâu rồi - năm 1978 ông đã có thơ in trên báo Văn Nghệ. Ngay từ khi xuất bản, tập thơ của Trương Đăng Dung đã nhanh chóng nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của bạn đọc, nhất là những bạn đọc “có nghề”, điều đó phản ánh qua hơn hai chục bài viết về nó công bố trên các báo và tạp chí khác nhau).

Thơ Trương Đăng Dung, có thể nói, là thơ của một người yêu và gắn bó với con người, với cuộc sống đến mức phải cảm thấy không thể chịu đựng nổi “con người này”, “cuộc sống này” – thậm chí là cả “thế giới này” – khi mà con người không sống đúng với những thiên hướng tốt đẹp của nó, khi mà cuộc sống đã bị bóp méo và cứ thế vận hành một cách phi lý. Trong bài thơ “Anh không còn gì ngoài em” của ông có một câu: “Anh chuẩn bị sống từ lúc mới sinh ra”. Câu thơ này, theo tôi, là một “mã” nghệ thuật quan trọng, phản ánh cái nhìn – thơ của Trương Đăng Dung về con người và thế giới. “Chuẩn bị sống”, nghĩa là con người chưa từng được sống một cách đích thực, nghĩa là cuộc sống như nó cần phải thế luôn luôn ở phía trước, ở thì tương lai vô định, và cuộc sống như nó đã và đang diễn ra chỉ là tiền – cuộc sống mà thôi. Đây là điều mà tôi tạm gọi là “cảm thức lạc lõng” trong thơ Trương Đăng Dung.

Năm 1977, 23 tuổi, sống giữa lòng một Châu Âu no đủ - Việt Nam khi đó mới qua năm thứ hai của thời kỳ hậu chiến với bao khó khăn đang chồng chất – Trương Đăng Dung viết bài “Tôi lại nhìn thấy họ”, trong đó có những câu: “Tôi lại nhìn thấy họ/ những người vợ suốt đêm vá lưới/ mắt quầng thâm nhìn chồng. Ngoài kia/ biển dâng triều, sóng cồn lên sôi động/ Tôi lại nhìn thấy họ/ dỡ nhà đi sơ tán. Từng đoàn người tay xách/ nách mang, lầm lũi đi qua cánh đồng bạc trắng/ Tôi lại nhìn thấy họ/ những xác người được tìm thấy/ trong lớp đất bom vùi. Những người mẹ/ chết vẫn ôm con, những đứa con chết/ mặt úp vào ngực mẹ…”. Những hình ảnh thật đến trần trụi, những hình ảnh được rút ra từ chính những gì tác giả đã chứng kiến trên quê hương mình và đã lưu trong ký ức. Nhưng bài thơ này không thể chỉ đọc như đọc nỗi nhớ về một quê hương tang thương của người đang ở xa đất nước. Hãy chú ý tới cái trạng thái hiện tại của những nhân vật trong bài thơ: Đó luôn là sự mong ngóng, sự trông đợi, sự tìm kiếm đến tuyệt vọng một cuộc – sống – đích – thực. Và hãy chú ý tới sự tái lặp của câu “Tôi lại nhìn thấy họ”, cũng như chú ý tới mấy câu thơ kết: “Tôi lại nhìn thấy họ/ đêm đêm giữa trời Âu/ những người tôi mới gặp lần đầu/ những người tôi chưa từng được gặp”. Không còn là nỗi xót xa trước số phận của những con người thuộc một đất nước cụ thể nữa rồi, đó là nỗi xót xa trước phận người – của hôm qua, hôm nay, và có thể là mãi mãi!

Rồi, năm 1983, trong lần sang Hungary lần thứ hai, Trương Đăng Dung viết bài “Những kỷ niệm tưởng tượng”, bài thơ mà nỗi xót xa - và cả sự cảm nhận về cái phi lý của cuộc sống – đã được đẩy lên với một sắc độ đậm hơn. Dưới hình thức một cuộc trò chuyện với nhà thơ Hungary Hollo Andras, bài thơ có đoạn: “Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó/ cùng nhau thấy những con trâu vừa kéo cày vừa đái bừa xuống ruộng/ cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống/ và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí/ trên nóc toa là trẻ nhỏ người già/ Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm/ chân người chết thò ra khỏi chiếu/ cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra/ vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn/ và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo/ bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi…”. Đó là cuộc sống gì mà kỳ lạ vậy? (Và ngay cả con người đang quan sát, đang tìm hiểu, đang tra vấn cuộc sống ấy cũng vậy, rất kỳ lạ: Khó có thể ngờ rằng một người bề ngoài lịch lãm chỉn chu đến thế mà trong thơ lại phóng túng dữ dội đến thế).

Ở trên, tôi đã nói tới “cảm thức lạc lõng” trong thơ Trương Đăng Dung. Lạc lõng trước thời gian, lạc lõng trước con người và thế giới, đôi khi lạc lõng với chính mình. Lạc lõng vì đã nhận biết và cảm thấu sự phi lý trong những cái đó. Điều này, một lần nữa phản ánh “chất Tây” của Trương Đăng Dung: Phần nào, ông đã chịu ảnh hưởng cái nhìn về thế giới của Franz Kafka – người đã bóc trần sự phi lý của “thế giới này” bằng những tác phẩm gây sững sờ cho toàn thế giới khi chúng được công bố.

Vậy nên, vào ngày 29 tết Canh Dần 2010, khi mọi người xung quanh đang lăng xăng túi bụi với những công việc chuẩn bị cho tiễn năm cũ đón năm mới, thì ông… chán nản, ngồi viết bài thơ “Giấc mơ của Kafka”, bài thơ mà theo tôi là hay nhất trong tập “Những kỷ niệm tưởng tượng”: “Ở New York chiều chiều/ những con voi nhảy từ tầng mười một xuống sông/ cứu những con chim sẻ/ Ở Paris trước cửa Viện bảo tàng/ người nằm ngáp/ trâu xếp hàng mua cỏ/ Ở Moscow những thiếu phụ da vàng/ chơi với hổ/ trên quảng trường ngập nước/ Ở Tokyo nữ phát thanh viên truyền hình/ không có miệng/ huơ tay chào khán giả/ Khắp nơi/ những đôi mắt/ dính trên cổ những người không có mặt/ những tiếng kêu/ phát ra từ miệng những người không có cổ/ những bàn chân/ càng bước càng lún sâu vào đất”.

Tất cả đều là những hình ảnh kỳ lạ, phi lý một cách không thể tưởng tượng nổi. Chúng là sự lộn trái logic thông thường của thế giới và của trật tự các sự vật. Có thể nói, bài thơ như phiên bản của một cơn ác mộng vậy: Không khí căng thẳng, các hình ảnh gắn kết với nhau một cách ngẫu nhiên, bất định, không tuân theo bất kỳ một nguyên tắc nào hết. Và từ đây mới toát ra một điều đáng nói: Thế giới này đã trở nên xa lạ biết bao với con người, nó không dành cho con người, càng cố hiểu thế giới con người càng lạc lõng trong sự xa lạ ấy!

Mới đây, gặp Trương Đăng Dung, khi nghe tôi than phiền về chuyện “ngọc thể” có những dấu hiệu bất an, ông cho một lời khuyên: Phải chú ý giữ gìn sức khỏe, ăn ngủ đủ, làm việc điều độ, suy nghĩ ít thôi. Thật ra, kẻ thù lớn nhất của con người chính là “cái thằng” thân xác đấy, nó mà ốm đau bệnh tật thì ta chẳng còn làm được cái gì như ta mong muốn nữa đâu. Ô, nghe như một câu trong “Đạo đức kinh” vậy: “Cường kỳ cốt, nhược kỳ chí, bão kỳ phúc…” (Làm cứng cái xương, làm yếu cái chí, làm no cái bụng). Có khi nào người nói những câu này chưa phải là… một “ông Tây” hoàn toàn như mình tưởng?

Hoài Nam

Ngày 15/3/2024, trái tim của nữ biệt động thành Nguyễn Thị Mai (SN 1943) với biệt danh “con thoi sắt” đã ngừng đập. Bà là một trong những nữ biệt động thành đã cống hiến cả tuổi thanh xuân cho cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken mới đây kêu gọi Israel vẫn phải làm nhiều hơn nữa để tăng dòng viện trợ nhân đạo vào Dải Gaza, đồng thời nhấn mạnh sẽ tận dụng chuyến thăm đến Trung Đông lần này để giải quyết vấn đề đó với các nhà lãnh đạo Israel.

Lợi dụng một bộ phận người dân chưa nắm đầy đủ thông tin về việc cài đặt, kích hoạt tài khoản định danh điện tử (VNeID), kẻ gian đã giả danh Công an, gọi điện thoại hướng dẫn, yêu cầu người dân cài đặt các ứng dụng giả mạo vào ĐTDĐ để lấy cắp thông tin cá nhân, chiếm đoạt tài sản. Trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng có nhiều trường hợp rơi vào bẫy của đối tượng lừa đảo, tài sản bị chiếm đoạt hàng trăm triệu đồng.

Đến hôm nay, ông Đạt vẫn nhớ như in từng giây phút của ngày lịch sử 49 năm về trước. Hôm ấy, ông ôm máy ảnh lao ra đường phố Sài Gòn với bầu máu nóng của chàng trai vừa 19 tuổi, chụp những tấm ảnh về thời khắc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Dịp lễ 30/4 và 1/5, Công an tỉnh Tiền Giang đã huy động 100% lực lượng CSGT làm nhiệm vụ điều tiết, phân luồng, tránh ùn tắc giao thông, đồng thời tăng cường công tác tuần tra kiểm soát, xử lý các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông, đặc biệt là vi phạm về nồng độ cồn.

Bảo tàng Biệt động Sài Gòn - Gia Định (số 145 Trần Quang Khải quận 1, TP Hồ Chí Minh) là bảo tàng tư nhân đầu tiên tại TP Hồ Chí Minh và là bảo tàng duy nhất tại Việt Nam về lực lượng biệt động Sài Gòn - Gia Định. Bảo tàng nằm trong di tích, địa điểm trước đây thuộc nghiệp đoàn Ngọc Quế - cơ sở bí mật của lực lượng biệt động Sài Gòn thuộc sở hữu của gia đình Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) Trần Văn Lai.

Sáng 30/4, Công an huyện Quế Sơn (Quảng Nam) cho biết, lực lượng chức năng vừa dập tắt vụ cháy lớn xảy ra tại Cửa hàng điện tử - điện lạnh Ninh Trang (thị trấn Đông Phú, huyện Quế Sơn). Vụ cháy không gây thiệt hại về người, song đã thiêu rụi nhiều tài sản có giá trị trong cửa hàng.

©2004. Bản quyền thuộc về Báo Công An Nhân Dân.
®Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Công An Nhân Dân.
English | 中文