Chuyện về người “cắm bản”
“Em sợ nhất là đêm cuối tuần, học trò lớn tuổi ngoài xã ngoài huyện nó về bản nghỉ. Học sinh lớn với thanh niên say rượu gõ cửa đập vách cả đêm. Có lần một anh say rượu vào phòng em, em phải... bỏ chạy", cô giáo Nha, một giáo viên cắm bản ở Mường Tè kể.
Cách huyện lị Mường Tè 57,6km đường đất đỏ mới nổ mìn vỡ núi để thông tuyến, đường chỉ dành cho một loại xe Uoát dã chiến đi được trong một mùa của năm (mùa khô), có một cây cầu. Cây cầu mỏng manh như một thanh đóm dài đặt chông chênh giữa hai bờ con sông Đà ở phần thượng lưu giáp biên giới Việt - Trung.
Từ cây cầu, đi bộ thêm độ 2 ngày nữa, chúng tôi tới xã Mù Cả với những bản chỉ nghe tên thôi đã thấy cách trở: Tó Khò, Ma Ú, Ma Ký, Xi Nế, Gò Cứ. Vậy là trong ngót 100km dọc dài đường đất hoang vu này, tôi - trong vai người cắm bản - đã trải lòng mình với công việc cắm bản của các xã: Bum Nưa, Bum Tở, Pác Ma, Mù Cả...
Dốc núi kinh người. Sú Lòng, công an huyện; Thanh, cán bộ Phòng Giáo dục huyện; Vằn, cán bộ Văn phòng Ủy ban huyện Mường Tè... và tôi đều im lặng, cúi mặt xuống những thớ đất đỏ, nhấc từng bước chân nặng nhọc.
Chợt có tiếng người rì rầm từ phía sau. Người phụ nữ không mặc trang phục Hà Nhì đang gánh toòng teng hai đầu đòn gánh mì tôm, gạo, muối, ấm đun nước bằng nhôm. Người đàn ông cũng cặm cụi mang lúc lỉu những túi, những bọc vào hai đầu đòn gánh. Người Hà Nhì không ai gồng gánh như thế cả. Họ để vật nặng trên lưng rồi gùi bằng... trán! Hỏi ra mới biết, đó là vợ chồng cô giáo Gianh, người Mường ở tỉnh Hòa Bình, đã dăm năm cắm bản ở Xi Nế. Chồng Gianh tên Đích, anh không phải là giáo viên tạm cư trong bản Xi Nế với mong muốn xóa đi sự cách trở “bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền” lâu nay.
700 cây số từ Xi Nế về quê Gianh đủ xa để một năm em về quê đúng 2 lần, lần nào cũng chưa hết mùi say xe đã tất tả chào chồng con đi biệt. Anh Đích xót con, xót vợ mới tính kế lên tạm trú ở Xi Nế, hằng ngày anh nai lưng vác đất đá cho các công trình dự án tại Mù Cả. Bất kỳ vật gì cần cõng lên đến Mù Cả, bằng lưng người hay bằng ngựa thồ đều có giá cước: 5.000đ/kg. “Công trình nhiều lắm. Mỗi ngày nhà em được người ta trả 35.000đ, anh ạ. Vất vả nhưng mà vợ chồng con cái lại có nhau” - Gianh vừa đổi vai gánh đồ vừa thở dốc dừng lại đỉnh núi ngắm... mây.
Anh Đích có vẻ hơi mặc cảm điều gì, anh cứ cặm cụi leo dốc tiếp. “Em cõng con ngược núi hôm ấy mà nghĩ buốt cả lòng. Nó cứ hỏi đi đâu đấy hả mẹ, em bảo đi cắm bản. Nó thích lắm: thế cắm bản là gì hả mẹ? Giờ đây cháu cũng a nhí, a cồ (anh, em tiếng Hà Nhì) với trẻ con trong bản, oách lắm!” - Gianh vẫn cắm mặt xuống đường dốc núi rỉ rả kể.
Một tuần vợ chồng Gianh mới xuống chợ được một lần, cho nên cứ tranh thủ mà mua bán, gánh gồng. Mua giời mua biển gì thì mua, không thể thiếu những món lương khô như mì tôm, cá biển hấp (giá rẻ, ăn rất ngán), trứng gà (trên này hầu như không để ý đến H5N1 đâu). Tại xã Mù Cả, anh em giáo viên biết rất rõ cái quán do vợ Chủ tịch UBND xã Toán Ma Tư bán lúc nào còn, lúc nào hết mì tôm và trứng gà, trứng vịt. Bởi mỗi tuần vợ anh Ma Tư đi chợ một lần, ngày cuối tuần thì trứng và mì tôm chắc chắn rất khan hiếm. Ai mua được còn là may mắn. Anh chị em ăn mì tôm liên hồi kỳ trận.
Nhớ buổi ngồi tâm sự với cô giáo Biên, người Điện Biên (chồng là cán bộ biên phòng Đồn Ca Lăng), dạy ở Trường mầm non Bum Nưa, cô bảo: "Mì ăn liền có dăm bảy loại, riêng “thằng” Hảo Hảo nó đã có 2 loại, bọn em cứ mua ăn đổi bữa. Hôm nay ăn mì Hảo Hảo thì ngày mai ăn mì Chanh. Nhưng thường thì không dám ăn tinh cái loại mì đóng gói đâu, bọn em phải ăn kèm mì trần người ta bán từng cân ấy nó rẻ hơn".
Cùng cắm bản Xi Nế với Gianh còn có cô giáo Nha. Nha, SN 1978, cũng người Hòa Bình. Tôi gặp em ở bản Ma Ký, cách Xi Nế hơn một ngày leo núi nữa. Nha cũng người Mường; chồng tên Tâm làm cán bộ xã ở vùng Tân Lạc, Hòa Bình, cứ thỉnh thoảng anh lại viết thư lên bảo vợ bỏ nghề về quê đi. Chẳng thấy mang về nhà xu nào mà cứ bỏ chồng bỏ con ở Mù Cả suốt năm này qua năm khác. Con trai Nha đã gần 4 tuổi rồi, mỗi lần không ngủ bắt bố kể chuyện cổ tích, cháu bé thường phải nghe những câu chuyện không bắt đầu bằng “Ngày xửa ngày xưa” rồi đột ngột kết thúc bằng câu cửa miệng trong một đĩa hài nham nhảm: “Thường thôi!”. Cái câu “Thường thôi” ấy sao nó đi vào dân gian nhanh thế? Nghe nói có cô giáo giảng bài, học sinh cứ luôn miệng “Thường thôi”; cô giáo đuổi ra khỏi lớp, cậu ấy lủi thủi đi rồi vẫn lẩm bẩm “Thường thôi” - hãi thứ văn hóa ấy quá!
Chưa có ai nói với tôi về đời giáo viên cắm bản sống động và bi hài như Nha. “Em có hai đứa bạn thân cũng đi cắm bản. Chúng nó bỏ nghề cả rồi. Con bé xinh lắm, hồi xưa đi học, em cứ bảo mày đi làm thư ký mắt xanh cho sếp giàu có thì hợp, thế mà nó vào Sài Gòn làm thư ký riêng thật. Hồi còn học phổ thông, nghe các thầy cô kể Mường Tè là chỗ rừng thiêng, nước độc sợ lắm, em không ngờ có ngày mình lại “đóng đô” ở đây. Đêm, nghe con hoẵng nó kêu, em toàn khóc một mình.
Cả trường có 3 giáo viên, thì 2 người đã là vợ chồng của nhau, thầy Kế đã 52 tuổi đầu. Em nằm và cứ đoán tiếng hoẵng kêu là tiếng của một con chim gì cổ họng nó rất rỗng. Nó kêu “kếp, kếp” rất buồn, rất sợ. Học sinh nó bảo đấy là con hoẵng thì biết thế thôi. Thật ra thì ở bản, em ăn thịt hoẵng nhiều lần rồi, nhưng toàn là người ta bắn được, xẻ thịt rồi gùi mỗi thịt về bản ăn - chứ em đã trông thấy hoẵng bao giờ đâu. Em cứ nghĩ hoẵng nó là con ma (...).
Lần nào về quê, em cũng cõng con ra huyện chụp phải chục pô ảnh rồi đem theo vào Mù Cả. Lần sau về lại đem ảnh cũ về, lại đi chụp ảnh mới đem đi cho đỡ nhớ. Lần sau, nếu anh vào, thì tìm em ở bản Gò Cứ nhé, cách Ma Kí này 20 cây số leo núi nữa. Cứ chuyển suốt thế này, em cũng chả dám trồng vườn rau để tăng gia nữa. Anh bảo, có khi rau vừa lên xanh thì mình lại xách hòm đi bản khác...”.--PageBreak--
Vẫn là mắt thấy, tai nghe
“Em sợ nhất là đêm cuối tuần, học trò lớn tuổi ngoài xã ngoài huyện nó về bản nghỉ. Học sinh lớn với thanh niên say rượu gõ cửa đập vách cả đêm. Nó chưa dám làm gì đâu, nhưng sợ lắm. Cũng may có vợ chồng thầy Kế ở chung một vách nứa. Có lần một anh say rượu vào phòng em, em phải... bỏ chạy". Cô Nha nói rỉ rả. Đang dở chuyện về thầy Bùi Thiết Kế, thầy thích Nho giáo, suốt đời dạy cấp 1, năm nay 52 tuổi, thầy lấy vợ muộn, cô giáo Ìm, vợ thầy, năm nay mới chỉ 35. Khi tôi tới, thầy Kế đang soạn giáo án bên cái bàn con con đóng bằng gỗ thừa thẹo nham nhở. Thầy ngẩng lên: “Tôi phải cố soạn nốt bài. Chốc nữa tối trời, đèn dầu là đôi mắt tôi chịu chết”. Cô Ìm đang cấy rau ngoài vườn trường.
Tôi cũng hay khoe là mình đi nhiều, nhưng đúng là chưa bao giờ tôi trông thấy một thứ trường lớp lại tồi tàn như trường học ở Ma Kí. Vợ chồng thầy Kế bì bõm tát nước mưa để chuẩn bị đón học trò. Trường xiêu vẹo thêm nhiều do mấy ngày cuối tháng 11 lịch Tây là tết của người Hà Nhì, học trò được nghỉ ròng một tuần, trâu bò xông vào phá hết tường vách. Nền của lớp học được đào khoét như hố khai quật khảo cổ (thấp hơn so với mặt sân 30cm).
Thầy Kế tát nước xong, cô Nha đứng dậy thì bùn ngập nửa giày. Họ trò ngồi lóp ngóp bên những chiếc ghế mà nếu chúng bỏ ra ngoài thì người thường không thể phân biệt được đâu là ghế, đâu là bàn. Bởi bàn và ghế chỉ cao nhỉnh hơn nhau một tí, chúng đều được ghép từ những tấm ván xẻ nham nhở. Trong lớp, giấy vụn trắng xóa. Tôi đến, học trò kéo đến xem người chụp ảnh đông đến mức, tôi đi một bước là một sân trẻ con nhùng nhùng chuyển động.
Suốt 3 đêm ngủ ở Mù Cả, đêm nào tôi cũng được vinh dự ôm thầy giáo Đắc Thuấn, SN 1978, hiệu trưởng. Bởi gần 30 giáo viên của nhà trường, không có một ai là được xây cho một xăngtimet nhà ở nào. Anh chị em dựng nhà nứa, hoặc ngủ nhờ luôn trong phòng vốn xây để cho các em học! Trâu bò, ngựa, đặc biệt là lợn chạy lông nhông khắp trường. Không đêm nào trường thắp đèn dầu quá 21 giờ.
Đêm trên đỉnh Mù Cả lạnh căm căm. 95 đứa học trò sống nhếch nhác đến mức không thể tưởng tượng trong căn nhà đan tre, lợp gianh rộng bằng và dài gấp đôi túp lều của một người đàn bà góa quê tôi. Nghe thầy Thuấn, thầy Thiết, thầy Hạnh, cô Thư, cô Hà nói mà tôi cứ nghĩ tôi nghe nhầm. 95 đứa trẻ nằm chen chúc. Độ chục đứa nằm úp thìa cả ra sân trường, chỉ với một tấm tôn ghếch vào mái lều che vắt tránh mưa! Nửa đêm tôi vào, không một giường nào mắc màn. Không một giường nào có dưới chục đứa ôm nhau ngủ. Nếu tính diện tích mặt sàn dành cho mỗi đầu người thì ở trường Mù Cả có mật độ dày nhất thế giới - tôi dám xác nhận kỷ lục này.
“Ký túc xá” này là do bố mẹ các em dựng. Mỗi bản góp sức dựng một gian nhỏ gọi là “ký túc xá” dành riêng cho con em bản mình. Nó tạm bợ đến mức, mỗi năm học, bà con lại ngả nứa dựng ký túc xá một lần. Tôi vào ký túc (chỉ có 1 gian) của bản Ma Kí, cả thảy có 22 em, nếu lũ nhỏ nằm úp thìa từ bậu cửa trước đến tường hậu gian phòng thì cũng vẫn thiếu chỗ. Các em phải nằm tráo đầu đuôi. Tôi bấm một tấm hình, về đếm được 18 em nhi nhít khắp các xó xỉnh của gian phòng, vẫn thiếu mất 4 đứa đang “đảo ngũ” về bản gùi gạo tiếp tế. Góc này mấy em sửa đèn dầu làm bằng cái lon nước tăng lực. Góc kia nhóm học sinh Gò Cứ tiếp tục phát huy truyền thống đánh bắt cá quê mình bằng cách ngồi đan lưới. Chúng ngồi giãi thẻ, đan lưới xong lại lóc nhóc chạy theo tiếng thác đổ xuống suối Nhù Ma (cách đó 45 phút tụt dốc) đánh cá.
Trong khu đất trống dựng cột lợp gianh đầu phòng thầy cô có một bãi chiến trường toàn những nồi niêu và các “kiến trúc” đều đặn ba hòn đá xếp chụm với nhau. Đó là nhà bếp. Lửa nổi suốt ngày, học trò ở đây vẫn giữ thói quen ở bản: tức là ngày ăn hai bữa, toàn vào giờ... hành chính: bữa lúc 9 giờ, bữa lúc 14 giờ. Hứng lên là các cháu nổi lửa.
Lời nói thật của lãnh đạo Phòng Giáo dục huyện
Tôi kể lại những gì mắt thấy, tai nghe sau một chuyến đi với
Trước tình hình đó, đúng ngày tôi có mặt, tôi đã “dự giờ” những lớp bổ túc “chưa từng có trong lịch sử” như thế này: thiếu giáo viên quá, ngành giáo dục Mường Tè đã quyết định thu nhận học sinh tốt nghiệp lớp 9 vào làm giáo viên mầm non. Nhận học sinh tốt nghiệp lớp 12 vào làm giáo viên tiểu học. Đó là một biện pháp chữa cháy. Nhưng nhận hồ sơ, ký kết những hợp đồng thời vụ không đảm bảo chất lượng như thế rồi lúc tuyển được người thay thế lại thải người ta (cả trăm người một lúc?) ra - nghĩ lại cứ thấy có điều gì không ổn.
Tôi chứng kiến cảnh thầy Nguyễn Văn Minh đang dạy những cô cậu hai mấy, ba mươi tuổi đang học bổ túc để làm giáo viên tiểu học, mà lòng cứ xót xa nghĩ đến cái thời bình dân học vụ thỉnh thoảng tivi hay phát lại. Thầy Minh ra phép toán: 215 + 307 + 132 rồi cả lớp ê a ngồi cộng. Nhà báo đến thăm, cô bé 21 tuổi là lớp phó phụ trách học tập đứng dậy trổ tài bằng cách xếp ba con số theo hàng dọc rồi cộng hàng đơn vị với hàng đơn vị, hàng chục với hàng chục... Em tên Hiền, người Thái, sự nỗ lực của em là cái gì đó thật thân thương, nhưng cũng có gì đó thật xót xa, cô giáo tiểu học tương lai (vài ngày nữa) của tôi ạ...
Có lẽ, phần nào những hình ảnh tạm bợ trên đây là biểu hiện của sự nỗ lực đưa giáo dục (và nhiều mặt) miền núi tiến kịp miền xuôi. Nếu như thế, chúng ta cần có chiến lược dồn tâm, dồn lực vào giúp đỡ để Mường Tè có thể vươn lên hơn nữa, chứ như thế này day dứt lắm