Chuyện về người từng mang bí số K2
Chiến tranh đã lùi xa. Nhưng những năm tháng hào hùng ấy vẫn in đậm bao chiến công của dân tộc. Có những chiến công âm thầm lặng lẽ của những người con hết mình vì Tổ quốc. Trong những con người ấy, có một người được biết đến với bí số
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, lúc đó cậu bé Lê Viết Trinh mới 11 tuổi, đang học tiểu học ở quê nhà nhưng đã sớm nhận thức và giác ngộ cách mạng, cứ một mực đòi bố mẹ cho đi du kích. Thấy cậu còn nhỏ quá, lúc đầu, mấy chú du kích không đồng ý, nhưng cậu cứ nằng nặc đòi đi bằng được nên cuối cùng đành chấp nhận cho cậu vào làm liên lạc cho xã đội và du kích xã. Suốt mấy năm sau đó cậu vừa học, vừa làm liên lạc viên, lại tranh thủ dạy bình dân học vụ, xóa mù chữ cho bà con trong thôn xóm.
Tháng 5/1953, trong một trận càn của thực dân Pháp vào xã Vĩnh Liêm (xã Trung Hải bây giờ), cả 3 anh em Trinh đều bị địch bắt và đưa về giam tại Lao Xá, Quảng Trị. Sau nhiều đợt tra tấn dã man nhưng không khai thác được gì, thực dân Pháp đã giết chết người anh trai đầu Lê Bảng, lúc đó là Trưởng Công an xã Vĩnh Liêm ngay trong nhà giam. Còn Lê Viết Trinh cùng một số bạn tù sau nhiều đêm bàn bạc đã tổ chức vượt ngục, trở về quê tiếp tục tham gia vào du kích xã.
Đến tháng 7/1954, Hiệp định Geneve được ký kết và theo đó lấy sông Bến Hải làm giới tuyến tạm thời chia cắt hai miền Nam - Bắc. Theo yêu cầu của lực lượng Công an vũ trang giới tuyến, lúc đó do các đồng chí Trương Quang Xà, Nguyễn Thanh Hà (sau này đều là Đại tá Công an vũ trang nghỉ hưu) phụ trách, đồng chí Trinh được chọn bố trí ở lại bờ Nam giới tuyến để tổ chức mạng lưới cơ sở, nắm tình hình di biến động của địch, phát hiện các âm mưu đưa người, phương tiện, vũ khí, tài liệu ra Bắc để chống phá ta... Năm 1956, đồng chí vinh dự được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt
Trong thời gian này, đồng chí Trinh đã xây dựng được mạng lưới nội tuyến gồm 5 thành viên: đồng chí Trinh mang bí số K2 phụ trách mạng lưới, anh ruột Trinh là Lê Định (H1), Hoàng Văn Hưu (Mười) là Trưởng ban cơ yếu của Trung đoàn ngụy quân án ngữ dọc bờ Nam sông Bến Hải, Hoàng Trung Viện (Năm) là nhân viên phục vụ cho tên Quận trưởng quận Gio Linh và Trần Chút (tức Mai, đã anh dũng hy sinh khi đang tiếp cận nắm tình hình địch). Nhóm điệp báo của đồng chí Trinh từ năm 1954 đến năm 1967 đã thu thập hàng nghìn tin tức, báo cáo kịp thời cho lực lượng Công an vũ trang của ta có những đối sách hợp lý đánh lại những âm mưu của địch.
Hiện nay, tại Phòng Lưu trữ Bộ Chỉ huy biên phòng tỉnh còn cất giữ gần 300 bản báo cáo viết tay của đồng chí Trinh về tình hình, âm mưu, thủ đoạn, cách bố trí phòng tuyến của địch, có bản báo cáo dày tới hơn 10 trang giấy pơ-luya. Đặc biệt, thông qua nắm tình hình của tổ điệp báo, đồng chí Trinh đã biết được kế hoạch xây dựng hàng rào điện tử MacNamara trước khi chúng thực hiện 6 tháng. Đồng chí đã cùng anh em trinh sát vẽ chi tiết sơ đồ bố trí 5 hàng rào, cách bố phòng, bãi mìn của địch, giúp cho lực lượng đặc công của ta bí mật thọc sâu, vô hiệu hóa các khu vực phòng thủ và bố phòng của chúng.
Những năm 1967-1968, địch tăng cường chiến dịch dồn dân vào các khu tập trung vừa để quản lý, vừa cô lập nhân dân với lực lượng của ta. Các thôn ở xã Gio Hải, Trung Giang, Gio Việt đều bị dồn vào hai khu tập trung là Cửa Việt (Gio Linh) và Tân Tường (Cam Lộ). Thực hiện chủ trương của Huyện ủy Gio Linh là cho dân vào các khu tập trung, đồng thời cài cắm lực lượng cách mạng vào làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở, cả gia đình đồng chí Trinh theo chỉ đạo của tổ chức đã theo dân lên khu tập trung Tân Tường. Với vỏ bọc là dân vệ, đồng chí Trinh đã cung cấp cho ta nhiều thông tin kịp thời về những kế hoạch càn quét của địch dọc tuyến đường 9, Cam Lộ, Khe Sanh, các hoạt động của bọn ngụy quân, ngụy quyền tại chi khu Cam Lộ, đồng thời xây dựng lực lượng nòng cốt cho phong trào cách mạng của từng thôn trong khu tập trung. Đặc biệt, đồng chí đã cung cấp cho ta bản sao bản đồ bố trí phòng thủ của Chi khu quân sự Cam Lộ. Đây là tài liệu cực kỳ quan trọng giúp cho lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương trong các trận đánh giải phóng Cam Lộ và tuyến đường 9, Khe Sanh năm 1972.
Khi bộ đội chủ lực của ta vào giải phóng Cam Lộ, đồng chí Trinh lúc đó trong bộ quần áo lính dân vệ nên đã bị bắt. Đồng chí đã yêu cầu được gặp đồng chí Trần (bí danh của đồng chí Phan Chung, bấy giờ là Bí thư Huyện ủy Gio Linh, sau này là Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, hiện đã nghỉ hưu) và đồng chí được minh oan. Trở về địa phương, đồng chí vẫn tiếp tục tham gia công tác mặt trận xã, rồi chuyển sang làm Công an viên thôn suốt gần 30 năm nay.
Hai lần cưới một người chồng
Không ai khác, đó là vợ ông, bà Trần Thị Thiển, quê ở xã bên, hồi ấy cũng là người nổi tiếng đẹp người, đẹp nết. Nhưng hoàn cảnh ông bà quen nhau rất đặc biệt. Bà hơn ông 5 tuổi. Trước khi quen ông, bà đã là Bí thư chi bộ thôn. Năm 1961, bà bị địch bắt và bị giam cùng ông trong lao xá Quảng Trị. Hai người hai phòng giam cách biệt nhưng tình yêu của hai con người cùng chí hướng, kiên trung với cách mạng đã nảy nở trong những bức tường bê tông cốt thép đầy tăm tối. Được ra tù sau gần một năm bị giam cầm, ông bà làm lễ hỏi. Năm 1963, khi ông bà dự định tổ chức đám cưới thì bà lại bị địch bắt giam. Mãi đến tháng 11/1966, bà mới được ra tù trong niềm mong đợi của ông.
Tưởng hạnh phúc của ông bà được trọn vẹn trong ngày cưới thì ngay hôm đó trong thôn diễn ra vụ trừng trị tên ác ôn khét tiếng. Chúng nghi ngờ chính bà là người tổ chức nên đã xông vào đám cưới còng tay bà lôi đi trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Chúng giam cầm, tra tấn bà trong suốt 5 tháng ròng rã nhưng không có chứng cứ buộc phải thả bà ra. Và thế là đám cưới của ông bà được tổ chức lần thứ hai. Giờ đây, năm người con trai của ông bà đã trưởng thành, ông bà đều ở tuổi "thất thập cổ lai hy" nhưng mỗi người vẫn miệt mài với công việc của mình: ông thì là Công an viên, bà vẫn là Bí thư chi bộ...