Gặp người con trai liệt sỹ Phạm Hồng Thái
Ký ức về người cha thân yêu
Nhà ông đã chuyển về Khu nhà tình nghĩa do Thành ủy Hà Nội tặng ở khu Đền Lừ, quận Hoàng Mai. Lên cầu thang tầng hai, thấy ông Nguyệt ra đón, dáng đi đã còng, nhưng nom ông mắt sáng, nói chuyện vẫn cười tươi. Ông cầm một tập sách dạy tiếng Anh nhờ chúng tôi chuyển đến cho học sinh vùng lũ. "Ngập hết rồi, mình sợ các cháu thiếu sách ngoại ngữ, ông ạ…". Ông Nguyệt gọi tôi là "ông" như cách ông học tiếng Pháp ngày nào rồi nhìn lên bức ảnh liệt sỹ Phạm Hồng Thái kính cẩn: "Ông cụ nhà tôi đây!".
Trên tường bức ảnh Phạm Hồng Thái mặc comple thắt cà-vạt không rõ chụp tháng năm nào, nhưng đấy là bức ảnh chụp hẳn hoi, không thể là vẽ truyền thần mà có được. Trong lịch sử dân tộc mà chúng tôi học, liệt sỹ Phạm Hồng Thái từng được nhà thơ Tố Hữu làm thơ "Sống chết được như anh/Thù giặc thương nước mình/ Sống làm quả bom nổ/ Chết hóa dòng sông xanh…". Sự kiện này xảy ra năm 1924, lúc ấy người con trai của Phạm Hồng Thái mới tròn 2 tuổi…
![]() |
|
Bảng Tổ quốc ghi công và ảnh Phạm Hồng Thái do bạn Trung Quốc chụp. |
Hẳn là các thế hệ người Việt Nam sẽ còn kể cho nhau nghe mãi câu chuyện chàng thanh niên xứ Nghệ đã ôm tạc đạn cảm tử giết tên toàn quyền thực dân Pháp Méclanh năm 1924 tại Sa Điện, Quảng Châu, Trung Quốc. Theo tài liệu của cụ Phan Bội Châu mà ông Nguyệt cung cấp thì tối 19/6/1924, Phạm Hồng Thái cải trang thành một nhà báo lọt vào khách sạn
Ông Phạm Minh Nguyệt kể, cha ông tên thật là Phạm Thành Tích, SN 1895 (có tài liệu cho là SN 1893 hoặc 1894) tại xã Hưng Nhân, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Cha ông lấy bí danh Phạm Hồng Thái là ghép hai chữ trong một câu thơ cổ đại ý: "Xem thân mình nhẹ tựa lông hồng. Coi nợ nước nặng bằng non Thái".
Nhà văn Sơn Tùng cho chúng tôi biết, từ năm 1918, Phạm Hồng Thái cùng với Lê Hồng Phong và Lê Thiết Hùng (cùng quê Hưng Nguyên, Nghệ An) đã sang Thái Lan ở nhờ nhà bà Đặng Quỳnh Anh để tìm đường hoạt động cách mạng. Bà Đặng Quỳnh Anh là cô ruột của nhà văn hóa Đặng Thai Mai, là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên ra nước ngoài hoạt động cách mạng (1913), thời ấy bà đã mở trại ở bản Đôông cạnh sông Mê Nan (Thái Lan) để nuôi những người yêu nước Việt Nam ra nước ngoài hoạt động cách mạng.
Từ đây, bà Quỳnh Anh đã giúp cho nhiều thanh niên yêu nước Việt
Hiện ông Nguyệt còn giữ bản Di thư Hán văn của Phạm Hồng Thái trước khi lên đường ám sát tên Méclanh: "Hồng Thái tôi vâng mệnh toàn thể hy sinh vì 40 triệu đồng bào, chết không hề nuối tiếc; những mong kêu cứu trên toàn thế giới để cho dân tộc Việt Nam được tồn tại trên trái đất này thì Hồng Thái tôi cũng yên lòng nơi chín suối".
![]() |
| Ông Phạm Minh Nguyệt thông qua Báo CAND tặng sách ngoại ngữ cho trẻ em miền Trung (11/2010). Ảnh: Quỳnh Huynh. |
Cũng theo tài liệu của nhà văn Sơn Tùng thì khi được tin Phạm Hồng Thái hy sinh ở Quảng Châu, Bác Hồ lúc này đang ở Liên Xô vô cùng xúc động đã nhiều đêm không ngủ. Tiếng bom của Phạm Hồng Thái ở Sa Điện đã thôi thúc Bác Hồ sớm trở về phương Đông.
Người cho tiếng bom Sa Điện này chẳng những đã góp phần thức tỉnh thanh niên Việt
Bác đã ra mộ thắp hương cho Phạm Hồng Thái, từ đây cứ thành lệ mỗi lần Thanh niên cách mạng đồng chí Hội do Bác Hồ thành lập tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ cách mạng từ Việt Nam sang thì trước ngày khai giảng cả khóa đều ra thắp hương tuyên thệ trước mộ Phạm Hồng Thái…
Có một điều rất thú vị là 58 năm sau, năm 1982, Nhà nước ta đã cấp bằng "Tổ quốc ghi công cho chiến sĩ cách mạng Phạm Hồng Thái đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc tháng 6/1924". Người ký là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng, một trong ít người đã tham gia học lớp đào tạo cán bộ cách mạng đầu tiên tại Quảng Châu, từng đưa nhiều lớp cán bộ ra tuyên thệ trước mộ Phạm Hồng Thái…
Vừa sinh con và chỉ kịp đặt tên cho con là Phạm Cao Lân, người thanh niên Phạm Hồng Thái - một cậu ấm con quan đã ra nước ngoài theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Ở Nghệ An, thực dân Pháp đến gặp thân phụ của Phạm Hồng Thái là Phạm Thành Mỹ - một huấn đạo quản lý giáo dục cấp huyện đe dọa: "Ông có thằng con theo giặc".
Biết thế nào cũng có ngày thực dân Pháp giở trò thô bạo, ông nội đổi tên cháu Phạm Cao Lân thành Phạm Minh Nguyệt. Thâm ý sâu xa của ông đồ Nho xứ Nghệ này là muốn nhắc nhở người cháu nội hãy luôn hướng về lý tưởng của người cha. Tên của hai bố con luôn hiện hữu trên bầu trời. Hồng Thái (Trời hồng), Minh Nguyệt (Trăng sáng). Vả lại, trong Kinh Thi có câu "Minh Nguyệt sơn đầu khiếu" (chim Minh Nguyệt hót trên đầu núi, ý nói bố con suốt đời xa cách…).
Năm 1960, khi được mời sang Quảng Châu khánh thành mộ Phạm Hồng Thái, ông Minh Nguyệt mới được các bạn Trung Quốc cho biết: Năm 1924, cảm phục trước tấm gương yêu nước và sự hy sinh oanh liệt của người thanh niên Việt Nam, các bạn đã tìm mọi cách vớt xác Phạm Hồng Thái đưa về chôn ở Bạch Vân Sơn. Khi Bác Hồ về Trung Quốc, Người cùng nhóm Tâm Tâm xã đưa mộ Phạm Hồng Thái về chôn cạnh Hoàng Hoa Cương.
Khi Nhà nước CHND Trung Hoa mở đường thì mộ Phạm Hồng Thái được chôn vào sâu một chút nữa sát nơi chôn 72 liệt sĩ của Trung Quốc hy sinh trong cuộc đấu tranh chống nhà nước phong kiến. Đây là một di tích văn hóa - lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc, nơi chôn cất mồ mả của nhiều thân nhân cao cấp ở Đài Loan, điểm du lịch hấp dẫn thể hiện tư tưởng nhân văn cao cả của Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Hoa.
Họ Phạm của liệt sĩ Phạm Hồng Thái ở Nghệ An vốn có truyền thống cách mạng. Ông nội của Phạm Hồng Thái là Phạm Trung Tuyển là chiến sĩ Văn thân chống Pháp, Giáo sư - Trung tướng Phạm Hồng Sơn, cố luật sư Phạm Thành Vinh (tức Phạm Hồng Lĩnh), nguyên Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng là con anh ruột của Phạm Hồng Thái và đều là cháu nội của cụ Huấn đạo Phạm Thành Mỹ.
Nhớ người mẹ sáng đạo nghĩa, thủy chung
Năm 1956, ông Phạm Minh Nguyệt lúc ấy vừa tham gia tiếp quản Hà Nội thì được Ban Tổ chức Trung ương Đảng Lao động Việt Nam mời lên nhận tiền trợ cấp tiêu chuẩn người có công với nước là người bố Phạm Hồng Thái. Thế rồi hằng tháng ông Nguyệt lên nhận tiên rồi gửi về cho mẹ là bà Cao Thị Chắt đang sống một mình tại Hưng Nguyên, Nghệ An. Ông Nguyệt bảo, số tiền 30 đồng/tháng hồi ấy là to lắm, có thể mua được hơn tạ gạo. Và như vậy, là từ năm 1956, bà Cao Thị Chắt - vợ người chiến sĩ cách mạng Phạm Hồng Thái đã được Nhà nước cho hưởng trợ cấp.
Hỏi ông Nguyệt những ký ức về mẹ, ông ngồi thừ ra, mắt nhìn xa xăm, lặng lẽ: "Mẹ tôi nghèo lắm. Bà làm nghề dệt vải. Tôi còn nhớ, ngày bố tôi sang Thái Lan rồi sang Trung Quốc, mẹ tôi sáng sáng quẩy gánh đi bán hàng xén, bán vải ở chợ quê. Sáng nào mẹ tôi cũng đi, tôi ở nhà một mình thui thủi, chỉ mong buổi trưa mẹ đi chợ về để được mẹ cho quà. Một buổi quá trưa, nhìn thấy mẹ tất tả đôi quang gánh đi vào trong ngõ, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, tôi chạy ra lục vào cái thúng tìm quà. Giật tấm vải màu đỏ đậy trên đôi thúng, tôi trố mắt kinh ngạc vì đôi quang gánh của mẹ tôi toàn là… gạch! Không một chiếc kẹo vừng hay cái bánh nào! Mẹ buông quang gánh ôm lấy tôi, hai mẹ con vừa khóc vừa dìu nhau vào nhà. Sau này tôi mới biết, để không cho bọn quan lại, địa chủ và thực dân Pháp biết gia đình Phạm Hồng Thái nghèo, mẹ tôi bỏ gạch vào đôi quang gánh, vờ đi chợ bán hàng xén để che mắt thực dân, không để chúng mua chuộc hay coi thường nếp nhà cách mạng… Tôi nhớ mẹ tôi lắm…".
Ông Nguyệt còn kể, từ năm 1969, ba Cao Thị Chắt từ quê Nghệ ra Hà Nội ở với con trai Phạm Minh Nguyệt, bà được Thành ủy Hà Nội cấp cho 20m2 nhà trên tầng 2. Ông Phạm Minh Nguyệt kể rằng, mẹ tôi bảo, ân nghĩa ấy là lớn lắm, vì sau cuộc kháng chiến chống Pháp và cả khi cả nước đang dồn sức chống Mỹ, cứu nước, Nhà nước còn bao nhiêu việc phải làm, nhưng hồi ấy đã nhớ tới việc đền ơn đáp nghĩa, lo chu cấp, lo cấp nhà cho hai mẹ con. Có lẽ cảm động trước sự quan tâm to lớn ấy mà bà Cao Thị Chắt - người vợ thủy chung của Phạm Hồng Thái một đời ở vậy thờ chồng nuôi con đến lúc từ biệt cõi trần vào ngày 31/3/1980.
Hôm ấy, nằm trên giường bệnh, bà chỉ dặn đi dặn lại con trai một điều: "Mẹ chỉ còn sống được mấy ngày nữa thôi, con hãy mau xin Nhà nước cắt tiêu chuẩn phụ cấp cho mẹ…". Chao ôi, một người nông dân thuần khiết của xứ Nghệ, hai bàn tay trắng vượt lũy tre làng ra với con trai ở đất Kẻ chợ, lời trăng trối cuối cùng của bà vẫn là giữ đạo thanh sạch…
Bà Cao Thị Chắt góa bụa từ năm 21 tuổi nhưng suốt đời ở vậy nuôi con bằng nghề dệt vải, kiên quyết nuôi con thành người. Minh Nguyệt đã học hết Thành chung ở Vinh, rồi ra Hà Nội và vào Huế để học tiếp. Năm 1943, Phạm Minh Nguyệt thi đỗ vào Trường Nông lâm Thú y Đông Dương, vì trường này có học bổng dành cho sinh viên.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông vào vùng Thanh Hóa, Nghệ An làm lâm nghiệp và tiếp đó làm than giúp các công binh xưởng chế tạo vũ khí cho bộ đội. 30 năm sau tiếng bom Phạm Hồng Thái, ông Phạm Minh Nguyệt với tư cách là phiên dịch viên cho Ban đình chiến Trung ương đã trở thành một trong những người tống tiễn tên thực dân Pháp cuối cùng rời khỏi Hà Nội năm 1954.
Gia đình người làm nên tiếng bom Sa Điện sẽ mãi mãi lưu danh. Liệt sỹ Phạm Hồng Thái đã được đặt tên đường ở Hà Nội và Nghệ An, rất nên huyện Hưng Nguyên, Nghệ An hãy dựng tượng đài trên quê hương Xôviết để nói với đời sau con đường cứu nước cứu dân của những bậc thế hệ tiền bối

