Năm lần tiễn con đi… năm lần khóc thầm lặng lẽ
Mẹ Đỗ Thị Miễn,ngồi trước mặt chúng tôi trầm lặng và hiền hậu. Ít ai nghĩ con người với sức vóc nhỏ bé ấy đã vượt qua những tháng ngày đau khổ nhất của cuộc đời khi hay tin cả năm người con yêu thương của mình đi đánh giặc đã vĩnh viễn không về.
Năm lần khóc thầm lặng lẽ…
Không hiểu sao tôi cứ nghĩ rằng câu hát ấy trong bài hát “Đất nước” của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn là dành riêng tặng mẹ. Nhưng khác người mẹ trong bài hát, mẹ có tới năm người con mãi mãi không về. Đó là các anh Lương Văn Chương, Lương Văn Bửu, Lương Văn Châu, Lương Văn Sơn và người con nuôi của mẹ: anh Lương Hiền.
Xin bắt đầu câu chuyện về mẹ với một thời thanh xuân đầy vất vả mà cũng đầy hạnh phúc. Mẹ lấy chồng khi mới ngoài hai mươi tuổi. Những năm 1944, 1946, 1948 và 1955 mẹ lần lượt sinh các anh Chương, Bửu, Châu, Sơn. Các con còn nhỏ, chồng tham gia hoạt động cách mạng, vắng nhà thường xuyên nên công việc đồng áng một mình mẹ phải đảm đương. Vất vả lắm, nhưng thương đứa cháu mồ côi, mẹ lại cưu mang nuôi nấng.
Qua chín năm chống Pháp gian khổ, cùng với quê hương, gia đình mẹ lại tiếp tục bước vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Vì bị giặc bắt tra tấn dã man nên sức khỏe giảm sút nghiêm trọng, ông ra đi ở tuổi 38, để lại cho mẹ mấy người con thơ dại. Năm ấy, đứa con cả Lương Văn Chương mới 12 tuổi, còn cậu út Sơn vừa tròn một năm. Thương các con và thương phận mình, lo làm sao nuôi nổi bốn đứa con thơ dại. Nhưng cuộc sống vẫn tiếp diễn, mẹ lăn vào lao động cật lực vừa để nuôi bốn đứa con đang tuổi ăn, tuổi lớn, để khoả lấp nỗi trống vắng.
Nhớ lại những tháng ngày ấy mẹ không khỏi ngậm ngùi. Bữa ăn thường xuyên của mấy mẹ con là cơm độn một phần cơm, chín phần sắn. Phần cơm ít ỏi nhất luôn để dành cho Sơn bé bỏng nhất nhà. Niềm vui, niềm hạnh phúc và cả mục đích sống của mẹ dồn vào bốn đứa con.
Thương mẹ vất vả nên các con của mẹ ai cũng ngoan và biết làm việc nhà từ nhỏ. Bài học về tình yêu thương, lòng căm thù giặc ngấm sâu vào mỗi người con của mẹ để rồi như một tất yếu, ngay từ khi trưởng thành, các anh đều lần lượt tham gia cách mạng.
Năm 1963, khi 19 tuổi, anh Chương nhập ngũ và được cấp trên chọn vào lực lượng an ninh. Năm 1966, con trai thứ hai anh là Lương Văn Bửu của mẹ cũng tiếp bước người anh xa mẹ lên đường đánh giặc. Còn người con thứ ba, Lương Văn Châu đi làm giao liên từ năm 14 tuổi. Rồi đến người con út Lương Văn Sơn cũng tiếp bước cha anh ra trận.
Mãi sau này, nghe anh em đồng đội kể, mẹ mới biết cả bốn con đều vinh dự được đứng trong lực lượng an ninh vũ trang. Những năm 60, trong không khí sục sôi cách mạng, căn nhà của mẹ cũng là nơi đi về của các anh bộ đội. Căn hầm dưới nền nhà là nơi che giấu cán bộ, chứa lương thực, vũ khí tiếp tế. Còn mẹ, vừa hoạt động bí mật, vừa hoạt động công khai trong phong trào phụ nữ, tham gia các cuộc biểu tình, tranh đấu...
Trong mắt của bọn Mỹ- ngụy ngày ấy, mẹ cũng như bao người phụ nữ nông thôn khác tần tảo cấy lúa, trồng khoai. Nhưng không ai biết, mẹ sống kham khổ dành từng hạt gạo, củ khoai để chuyển vào căn cứ. Một lần, do nghi ngờ, giặc bắt mẹ và anh Lương Hiền lên đồn. Chúng tra hỏi, mẹ bảo: “Nhà nghèo, con tôi đi làm ăn xa. Chúng đi đâu, làm gì tôi làm sao biết được”. Không đủ chứng cứ, chúng đành cho mẹ về, còn anh Hiền bị chúng giữ lại. Không kể ngày mưa, ngày nắng, mẹ liên tục đi đòi chúng thả anh về. Chúng không chịu thả, mẹ nghĩ cách đưa anh Hiền trốn và ngầm báo cho anh Chương về đón lên căn cứ cách mạng. Thế là người con cuối cùng mẹ cũng đóng góp cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Sau năm lần tiễn con đi, nỗi đau mất mát bắt đầu dồn dập đổ lên đời mẹ từ sau mùa xuân 1968. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy hồi tết Mậu Thân, mẹ nhận được tin anh Lương Văn Chương hy sinh. Nước mắt khóc thương người con cả chưa khô thì mẹ lại chứng kiến cảnh út Hiền, đứa con nuôi tội nghiệp bị giặc sát hại ở đầu xóm. Chính mẹ đã bế trên tay xác người con yêu dấu đi qua họng súng của kẻ thù đưa về vườn nhà chôn cất. Những ngày ấy, chiều chiều, người ta lại thấy mẹ ra con dốc gần nhà, nơi anh Hiền bị bắn, nâng niu từng viên sỏi trên tay. Còn đêm về, mẹ chong đèn đọc đi đọc lại lá thư anh Chương mới gửi. Lá thư ấy, cũng là lá thư cuối cùng với những dòng như sau: “Người ta bảo công cha, nghĩa mẹ, chữ thầy, nhưng với chúng con cả ba chữ trên đều dồn về cho mẹ. Mẹ đã tần tảo nuôi chúng con khôn lớn mà chưa biết khi nào chúng con mới đền đáp công lao ấy được…”.
Nỗi đau mất đứa con cả và con út chưa nguôi thì năm 1969, mẹ lại nhận được tin anh Châu anh dũng hy sinh. Ba năm sau, năm 1972, anh Sơn vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. Bốn người con hy sinh đã để lại một khoảng trống lớn trong lòng mẹ. Cho đến đầu năm 1975, nghe tiếng quân reo thần tốc, mẹ đã mơ đến ngày chiến thắng, Bửu sẽ về với mẹ, với người vợ trẻ và đứa con 7 tháng của anh. Nhưng niềm mơ ước cháy bỏng ấy của mẹ lại cũng không thành. Chỉ trước ngày chiến thắng 30/4/1975 một tháng, anh Bửu của mẹ đã hy sinh trong một trận chiến đấu ác liệt với quân thù. Nỗi đau cuối cùng sao mà quá nặng! Mẹ không còn khóc bằng nước mắt mà khóc bằng những giọt máu trong tim. Nhìn những tấm bằng “Tổ quốc ghi công” được đặt lên bàn thờ, mẹ chỉ biết lặng câm, lúc ấy mẹ tin rằng các anh không bao giờ trở về nữa!
“Các anh không về, mình mẹ lặng im…”
Mẹ đã trải qua những tháng ngày đau thương ấy bằng nghị lực phi thường và bằng suy nghĩ mình phải cứng rắn để làm chỗ dựa cho người con dâu mới 20 tuổi và đứa cháu 7 tháng tuổi. Cũng chịu cảnh đơn chiếc từ hơn 30 tuổi, mẹ hiểu hơn ai hết nỗi vất vả của người phụ nữ. Ngày mẹ còn trẻ, có người khuyên mẹ đi bước nữa, nhưng nhìn bốn con thơ dại, mẹ quyết định ở vậy nuôi con. Cũng có lúc mẹ lại thầm nghĩ, ngày ấy, mẹ một nách bốn con, tuổi đã gần 40, ở vậy đã đành nhưng con dâu mẹ đang ở tuổi đôi mươi phơi phới tuổi xuân. Một đêm, đợi con dâu ru cháu ngủ xong, mẹ thắp hương khấn chồng và năm đứa con rồi gọi con dâu dậy. Mẹ khuyên chị đi lấy chồng. Nào ngờ, thay cho câu trả lời, con dâu mẹ lẳng lặng lấy bức thư của chồng (liệt sĩ Lương Văn Bửu) dặn dò chị chăm sóc mẹ giúp anh ra đọc. Đến lúc ấy, cả mẹ và chị đều ôm nhau khóc.
Đất nước hết chiến tranh, nhưng cuộc sống vẫn còn vô vàn khó khăn. Ngoài giờ làm việc, mẹ và chị lại tranh thủ buôn bán để kiếm tiền nuôi Hồng Quang ăn học. Mẹ luôn tâm niệm, khổ bao nhiêu mẹ cũng chịu được, chỉ lo cho con dâu. Có mảnh vải mới, hai mẹ con cứ đùn đẩy nhường nhau không ai chịu đi may. Cuối cùng, mẹ kiên quyết bắt chị nhận vì “con còn đi làm, phải mặc cho tươm tất”. Hai mẹ con đã dồn hết cả tình thương còn lại cho giọt máu duy nhất của liệt sĩ Lương Văn Bửu.
Mẹ bảo, những tháng năm cuối đời này, mẹ nguôi ngoai dần nỗi đau chính nhờ sự quan tâm chia sẻ của cán bộ, chiến sĩ công an tỉnh Quảng
Người cháu nội bé bỏng, côi cút năm xưa, nay đã trở thành một chiến sĩ công an tỉnh Quảng
Mẹ tâm sự, ước nguyện lớn nhất của mẹ bây giờ là tìm được hài cốt anh Lương Văn Sơn. Nghe tin anh hy sinh tại dốc Bàn Đinh, nhiều lần mẹ tới đó tìm nhưng vẫn chưa tìm được. Những khi trời mưa gió, mẹ lại thương anh còn nằm dãi dầu nơi núi rừng miền Trung.
Trò chuyện với mẹ, tôi luôn cảm nhận được sự ấm áp, vững chãi tỏa ra từ tâm hồn, tính cách của mẹ. Tôi thêm hiểu vì sao đất nước Việt