Hoạn Thư - Người đưa Thuý Kiều đến cõi đạo
Hoạn Thư chỉ đánh ghen để tỏ rõ quyền uy văn hoá, vậy mà đã giáng một đòn quyết định vào tình yêu cuộc sống và khát vọng trần thế của Kiều. Con người phản kháng trong Kiều chết dần, trở thành một cái bóng ban ngày đầy cam chịu. Từ đây, trên nấm mồ của tình yêu, của chữ Mệnh, đoá hoa phù dung của nhà Phật đã mọc lên.
Cuộc chơi văn hóa tước đoạt linh hồn
Trong lần chạy trốn đầu tiên mắc bẫy Sở Khanh, Kiều chịu nhịn khi Sở Khanh trở mặt và hùng hổ chối tội và dọa dẫm:
Nàng rằng: "Thôi thế thì thôi
Rằng không thì cũng vâng lời rằng không"
Nhưng đến khi Sở Khanh lấn tới "quát mắng đùng đùng" định "thị hùng ra tay" giở trò bạo lực thì Kiều bật lại ngay, quyết liệt, mắng thẳng vào mặt gã:
"Đem người đẩy xuống giếng khơi
Nói lời rồi lại ăn lời được ngay"
Lúc mới bắt cóc Kiều về, Hoạn Thư đánh đập, mắng mỏ nhục mạ Kiều, Kiều vẫn cam phận. Nhưng nếu sau đó Hoạn Thư giở trò thô bạo đánh đập, rỉa rói hay mắng nhiếc Kiều trước mặt Thúc chắc khó thắng Kiều - biết đâu sau trận đòn ghen, Kiều chẳng làm cho Hoạn Thư bẽ mặt như với Sở Khanh.
Nhưng Hoạn Thư đã không làm thế. Hoạn Thư chọn cách "giáp lá cà", lồng dần quyền lực vào tình cảm khiến cho Kiều dù đã tỉnh táo trước mọi điều vẫn bị cuốn dần vào cuộc chơi văn hóa tước đoạt linh hồn mà Hoạn Thư là đạo diễn tài ba. Hoạn Thư đưa Kiều vào cuộc sống bình thường của một con hầu như trăm ngàn con hầu:
"Sớm khuya khăn mặt lược đầu
Phận con hầu, giữ con hầu, dám sai"
Sau đó, Hoạn Thư tỉ tê tâm sự hỏi về tài đàn của Kiều, cho Kiều đánh đàn và tỏ ra đồng cảm với con người, văn hóa của Kiều:
Lĩnh lời nàng mới lựa dây
Nỉ non thánh thót, dễ say lòng người
Tiểu thư nghe cũng thương tài
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân
Kiều được nâng lên một cấp - nửa nghệ sĩ, nửa con hầu bên cạnh Hoạn Thư - nửa bà chủ, nửa tri âm. Cái tính chất nước đôi nhì nhằng đó chính là cái lưới dễ bủa sâu vào tâm thức giao thoa cộng sinh của con người Việt
Cửa người đày đọa chút thân
Sớm năn nỉ bóng, đêm ân hận lòng
Lâm Truy chút nghĩa đèo bòng
Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau!
Hình ảnh Kiều cũng mong manh hơn, chỉ là cái bóng. Có thể nói, Hoạn Thư đã "diễn biến hoà bình" để tước đoạt tinh thần phản kháng của Kiều. Con người phản kháng chết dần, chết dần như thế. Từ đây, trên nấm mồ của tình yêu, của chữ Mệnh, đóa hoa phù dung của nhà Phật đã mọc lên.
Cái bóng ban ngày trong thế giới của Hoạn Thư
Sống trong thế giới của Thúc Sinh, Kiều luôn hiện ra trong tư cách một cái "bóng" ban đêm:
"Người về chiếc bóng năm canh"
"Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai"
"Nàng từ chiếc bóng song the"
"Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài"
Từ chỗ chỉ là một chữ Mệnh, chữ Tài bất thành nhân dạng trong thế giới của tư tưởng và đạo lý Nho giáo phong kiến đến chỗ trở thành một cái bóng trong đêm lầm lũi, cô đơn và lệ thuộc trong thế giới của Thúc Sinh, tư cách con người của Kiều đã nhích lên một bước. Nhưng đến khi trở thành gia nô dưới trướng Hoạn Thư thì cái bóng bị phơi bày ra dưới ánh sáng ban ngày thật bẽ bàng, trơ trẽn:
Sớm năn nỉ bóng, đêm ân hận lòng
Sao Nguyễn Du không thể viết: "Đêm năn nỉ bóng, ngày ân hận lòng" theo cái logic thẩm mỹ trước đây? Chắc hẳn, có một linh cảm nghệ thuật tinh vi nào đó trong vô thức khiến Nguyễn Du chuyển biến từ cái bóng ban đêm thành cái bóng ban ngày làm đảo ngược hẳn cả tình thế số phận, tính chất của cuộc chơi. Trong từ ngữ tưởng như vô tình ta đều có thể nhìn ra thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du.
Nhưng cái bóng ban ngày của Kiều, dù thật bẽ bàng, mong manh, chua chát, vẫn không phải là cái bóng ma theo kiểu Đạm Tiên lởn vởn ở cõi đời. Cái bóng mong manh, lặng lẽ ấy của Kiều hiện lên trên cái nền lộng lẫy phù du của "bóng hoa đầy đất", "bóng nước in trời" thật hài hòa trong một cảm quan triết học của nhà Phật coi thế gian này và tấm thân ta chỉ là cái bóng hư ảo, giả tưởng mà thôi. Cái nhìn của nhà Phật thấm đượm cả vào trong thái độ và lời lẽ của Hoạn Thư và Thúc Sinh:
"Bể trần chìm nổi thuyền quyên
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời"
"Nghìn xưa âu cũng thế này
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa"
Tư tưởng Phật giáo đã trùm lên như một căn nguyên sâu xa và một cứu cánh giải thoát. Hoạn Thư cũng tìm thấy giải pháp khoan dung trong triết lý nhà Phật:
"Tiểu thư rằng: ý trong tờ
Rằng đem phận bạc xin nhờ cửa không
Thôi thì thôi, cũng chiều lòng
Cũng cho khỏi lụy, trong vòng bước ra"
Lụy ở đây là cõi đời tục lụy, là sự sa lầy trong tham, sân, si cái gốc của mọi khổ đau trần thế theo quan điểm của Phật giáo. Hoạn Thư khoan dung một cách có lý thuyết, có nguyên tắc, không phải chỉ là sự cảm thông của tình cảm hiện tại, mà là một quyết đoán lý trí muốn trừ tận gốc cái khổ của Kiều và cái mất mát của chính Hoạn Thư. Nếu như khi hành hạ Thuý Kiều, Hoạn Thư đứng ở lập trường Nho gia để giữ "nếp nhà" để khai thác tư tưởng triệt để "chính danh định phận”: "phận con hầu giữ, con hầu dám sai" để "làm cho con ở chúa nhà đôi nơi" thì khi nới tay với Kiều, Hoạn Thư lại đứng trên lập trường tư tưởng giải thoát của Phật giáo "cũng cho khỏi lụy" để đi tới quyết định "cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh".
Kẻ sát hại tư cách thẩm mỹ của Kiều - bằng ngón đòn đánh ghen siêu hạng bắt Kiều đánh đàn như một thứ "văn nô" - lại là kẻ mở cánh cửa cho Kiều bước sang cõi đạo. Cũng thật bất ngờ, cái không gian đầy màu sắc thiền lại nằm ngay trong vườn của nhà họ Hoạn, kẻ đầy những tham, sân, si trần thế. Cái không gian ấy như một thứ đồ cổ để trong nhà không mấy khi dùng đến, nay hiển hiện trước mắt Kiều như một cõi hóa thân:
"Sẵn Quan Âm các vườn ta
Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa
Có cổ thụ, có sơn hồ
Cho nàng ra đó, giữ chùa chép kinh
Tâng tâng trời mới bình minh
Hương hoa ngũ cúng sắm sanh lẽ thường"
Cái bình minh "tâng tâng" ở đây thật là trong trẻo, tinh khiết, như số phận Kiều vừa gột rửa hết bụi trần, mở ra trang đời mới, ngày sống mới! Và cái cõi đạo nằm gọn trong lòng cõi đời ấy cũng rất Việt
Khoảng giao thoa giữa Đời và Đạo
Trong tâm thức người Việt, cõi đạo không hề đứt đoạn với cõi đời, đạo bên đời, đời có đạo, đời đạo hai bề vẹn cả hai. Người Việt vừa tu Phật vừa mang gươm giữ nước, vừa ngồi trên ngai vàng trị quốc vừa vi hành lên núi tọa thiền, hạnh ngộ. Không phải là phép cộng giản đơn của kinh sách và gươm giáo, trăng gió và lý tưởng xã hội, sự hoà quyện các cực đối lập trong một thực thể dường như đã là thể tạng tinh thần của con người Việt
Nếu như ở một xứ sở khác, nhà thờ thật khó lòng cho một cô gái như Kiều vào nhà thờ mà vẫn để cô gái đó gần gũi giao lưu với tình nhân kề cẫn cõi đời. Cái khoảng giao thoa giữa Đời và Đạo trong không gian Chùa Quan Âm các nhà họ Hoạn thật hợp với thể tạng trữ tình của người Việt
Khi là con điếm, Kiều được hiện ra dưới cái nhìn của Thúc Sinh như là một kiệt tác ngọc ngà trong trắng của thiên nhiên. Khi ở chùa Quan Âm các, Kiều lại hiện ra như một kẻ cắp. Trong lầu xanh Tú Bà, Kiều vẫn tỏ rõ phẩm giá của một người trinh tiết. Trong cõi tu hành, Kiều vẫn "rơi châu vắng người" vẫn "ngậm thở nuốt than" vấn vương những sầu đau tục lụy và vẫn có Thúc thừa cơ "xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng"! Vậy là chùa Quan Âm các kia cũng không phải là cõi đạo đích thực của Kiều, đó chỉ là bóng mát của đạo để Kiều nương tựa, là một thứ nhà tù giam lỏng của Kiều, nằm ở khoảng giữa của phận con hầu và người tự do.
Nếu như văn hóa Việt có đặc điểm hỗn dung, cộng sinh thì đặc điểm đó bộc lộ rõ rệt nhuần nhuyễn trong đoạn đời Kiều gắn với Thúc Sinh, ở đó Đời và Đạo, Phật và Nho, cái thật và cái ảo, cái gần gũi và cái siêu thoát đan xen vào nhau trong từng cảnh vật, từng lời nói, từng ý nghĩ. Không phải một nghệ sĩ thiên tài bắt nhạy với hồn Việt như Nguyễn Du thì thật khó thể hiện cái đoạn đời vừa cay đắng thi vị bên những con người vừa nôm na, nhu nhược, hiểm độc, khôn ngoan vừa đôn hậu, biết điều, có tình có lý. Khi Kiều ăn cắp đôi kim ngân đến cửa chùa của vãi Giác Duyên, cảnh vật bừng lên lộng lẫy vẻ Thiền:
Cửa thiền vừa cữ cuối xuân
Bóng hoa đầy đất vẻ ngân ngang trời
Cái cảnh tượng huy hoàng ấy cũng là cao trào của cảm hứng Thiền trong Truyện Kiều, nó bừng lên lần cuối để khép lại một chặng đường tâm linh. Ngay sau cảnh tượng lộng lẫy như Đại viện cảnh trí hiện ra trong khoảnh khắc bừng ngộ này, Kiều bị ném trở lại lầu xanh với những tiếng kêu thương cũ thấm đẫm cái nhìn định mệnh của Nho giáo trước khi gặp Thúc Sinh:
"Chém cha cái số hoa đào
Cởi ra rồi lại buộc vào như chơi
Nghĩ đời mà ngán cho đời
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!"
Khi tiếng kêu ai oán được đẩy lên cung bậc cao nhất, cái Mệnh hiện lên trước mặt Kiều rõ rệt nhất, khi Kiều đã tuyệt vọng, buông trôi:
"Biết thân chạy chẳng khỏi Trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh"
Thì lập tức, y như Bụt hiện sau tiếng kêu thống khổ, Từ Hải xuất hiện ngay như một vị cứu tinh cuốn Kiều vào trong đợt sóng mới của hành động giải phóng, của khát vọng tự do. Kiều được đẩy vào một không gian văn hóa khác hoàn toàn ngược với cõi thiền xưa.
Nếu như ngày xưa "Bóng hoa đầy đất vẻ ngân ngang trời" thì giờ đây "Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường". Cùng với sự đổi ngôi, Kiều đã dấn thân vào một cực của cõi đời, không còn là con người của ba cõi - Cõi Đời, cõi Đẹp và cõi Đạo - như thuở hàn vi trong thế giới của Hoạn Thư