Chuẩn bị báo cáo nguyên nhân sự cố thủy điện Sông Bung
- Thành lập Tổ công tác điều tra sự cố tại thủy điện Sông Bung 2
- Vẫn chưa tìm thấy công nhân mất tích sau sự cố tại thủy điện Sông Bung 2
Bộ Công Thương cũng cho biết đã tích cực giải quyết sự cố khi thi công công trình và cam kết về môi trường đối với 15 dự án như: An Khê - Ka Nak (173 MW); Sê San 3 (260 MW); Sê San 3A (108 MW); Đăk Srông 3A (10,2 MW); Hà Tây (13 MW); Alin B1 (42 MW); A Lin B2 (20 MW); Sông Tranh 3 (62 MW); Sông Bung 5 (57 MW); Đăk Pring (7,5 MW); Đồng Văn; Nhạn Hạc; Hòa Thuận; Hoa Thám; Hố Hô.
Đối với các dự án Đại Nga và Đại Bình - mà báo chí đã phản ánh việc dự án chưa đền bù tái định cư đã thu hẹp dòng sông, làm nước ngập đất đai, tài sản của người dân, Bộ Công Thương đã có văn bản gửi UBND tỉnh Lâm Đồng đề nghị chỉ đạo tạm dừng thi công đối với dự án Đại Bình và tổ chức kiểm tra, rà soát tổng thể quá trình thực hiện các thủ tục đầu tư, xây dựng của chủ đầu tư các dự án trên để yêu cầu khắc phục các tồn tại, vướng mắc.
Thủy điện Sông Bung 2 – nơi xảy ra sự cố vào tháng 9-2016 khiến 2 công nhân mất tích. |
Đối với sự cố lũ cuốn trôi cửa van số 2 của hầm dẫn dòng thi công công trình thủy điện Sông Bung 2 tại tỉnh Quảng Nam, Bộ này cho biết đang tích cực triển khai thực hiện việc giám định nguyên nhân sự cố và đang hoàn thiện dự thảo báo cáo kết quả kiểm định để chuẩn bị báo cáo chính thức Thủ tướng.
Bộ cũng đã chỉ đạo EVN thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho công trình và chuẩn bị sẵn sàng phương án thi công trở lại sau khi được cấp có thẩm quyền cho phép.
Theo Bộ Công Thương vẫn còn tồn tại một số bất cập cần được khắc phục. Cụ thể, các Sở Công Thương chưa có hoặc có ít cán bộ có chuyên môn cần thiết liên quan đến công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng như: thủy lợi, thủy điện, xây dựng, giao thông...
Qua kiểm tra, đánh giá cho thấy, việc quản lý chất lượng công trình của các Sở Công Thương từ khâu thẩm định thiết kế đến việc tổ chức, thực hiện kiểm tra công tác nghiệm thu còn tồn tại một số vấn đề, chưa theo đúng quy định và chưa đáp ứng yêu cầu công việc.
Việc phối hợp giữa Sở Công Thương hoặc Chủ đầu tư với các chuyên gia hoặc đơn vị tư vấn thẩm tra để thẩm tra, thẩm định thiết kế công trình cũng bị hạn chế, do Sở Công Thương và chủ đầu tư dự án chưa nắm bắt được đầy đủ, chính xác thông tin về năng lực và kinh nghiệm thực sự của chuyên gia, đơn vị tư vấn; chưa có chuyên môn để lựa chọn được chuyên gia, đơn vị tư vấn có năng lực, kinh nghiệm hoặc đưa ra yêu cầu đầy đủ về nội dung cần thẩm tra cũng như đánh giá chất lượng kết quả thực hiện của chuyên gia, đơn vị tư vấn thẩm tra.
Do không đủ năng lực chuyên môn, hiện một số Sở Công Thương đã đề nghị Bộ Công Thương giúp việc thẩm định thiết kế, kiểm tra công tác nghiệm thu...
Bên cạnh đó, kinh phí chi trả cho các chuyên gia hoặc đơn vị tư vấn thẩm tra có kinh nghiệm cũng còn thấp, các dự án hầu hết thuộc khu vực miền núi, đi lại khó khăn, cách xa các trung tâm thành phố nên nhiều cơ quan quản lý, chủ đầu tư không thực sự quan tâm đến việc thẩm tra.
Mỗi năm thu 1.200 tỷ đồng dịch vụ môi trường rừng Theo số liệu báo cáo của Bộ NN&PTNT, tính đến tháng 8 năm 2017, tổng diện tích phải trồng bù rừng là 21.621 ha; diện tích đã thực hiện là 21.404 ha, đạt 99% so với diện tích phải trồng. Mặc dù tỷ lệ trồng rừng đạt cao nhưng không đồng đều giữa các địa phương. Một số địa phương trồng vượt chỉ tiêu như: Lai Châu (5.339 ha/2.427 ha); Thanh Hóa (1.650 ha/1.464 ha); Nghệ An (2.136/2.124 ha), một số đơn vị diện tích chuyển đổi lớn nhưng kết quả trồng thấp như: Lâm Đồng (1.581 ha/2.980 ha); Sơn La (940 ha/1.808 ha); Thừa Thiên - Huế (307 ha/1.008 ha); Bình Thuận (16 ha/247 ha). Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) có 22 dự án phải thực hiện trồng bù rừng với tổng diện tích khoảng 12.974 ha, thì hiện tập đoàn này đã và đang tổ chức trồng bù rừng cho 22/22 dự án, trong đó có 18 dự án đã hoàn thành. Các nhà máy thủy điện cũng đã nộp 711,67/784,285 tỷ đồng để địa phương tổ chức trồng bù rừng theo quy định. Theo thống kê của Quỹ bảo vệ và phát triển rừng Trung ương - Bộ NN&PTNT, tổng số tiền thu dịch vụ môi trường rừng từ năm 2011 đến nay của các cơ sở sản xuất thủy điện là 7.273,540 tỷ đồng. Trong giai đoạn 5 năm 2011-2015, tiền dịch vụ môi trường rừng thu bình quân là 1.200 tỷ đồng/năm, tương đương với 22% tổng đầu tư bình quân năm của toàn xã hội cho ngành lâm nghiệp, trong đó chủ yếu là thu từ các cơ sở sản xuất thủy điện (chiếm 97,1% tổng thu). |