Ai đang tự “làm giá” vàng?
Khi vàng thế giới chưa kịp lên, vàng SJC đã tăng đột ngột, khi vàng thế giới lao dốc, SJC lại “đủng đỉnh” giữ giá khiến cho chênh lệch giá vàng SJC và vàng thế giới có thời điểm lên tới 20 triệu đồng/lượng. SJC thì khẳng định mình không thao túng mà do khách hàng có “nhu cầu cao” nên mới đội giá?
Chênh lệch giá vàng chảy vào túi ai?
Trong cuộc họp về công tác quản lý thị trường vàng diễn ra cuối tuần giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với các tổ chức tín dụng (TCTD), doanh nghiệp kinh doanh vàng, câu chuyện chênh lệch giá vàng bất thường đã được nêu ra.
Bà Lê Thị Thúy Sen - Vụ trưởng Vụ Truyền thông - nhấn mạnh, Vụ Truyền thông đã tổng hợp dư luận về chính sách với vàng trên nguyên tắc khách quan từ nhiều nguồn khác nhau như báo chí, các buổi làm việc với các chuyên gia… Có ý kiến đặt câu hỏi vì sao lại có hiện tượng chênh lệch giá vàng với SJC và vàng quốc tế từ 15-20 triệu/1 lượng? Có hay không lợi ích nhóm, tiền chênh đó ai được hưởng lợi? Tại sao không xóa bỏ độc quyền sản xuất vàng miếng… Chính sách vàng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình hiện nay để kéo giá vàng SJC về gần giá vàng thế giới?
Phát biểu tại cuộc họp, bà Lê Thúy Hằng - Tổng Giám đốc Công ty SJC - cho biết, từ năm 2012, thương hiệu SJC được Chính phủ và NHNN lựa chọn là thương hiệu vàng quốc gia. Việc sản xuất vàng miếng được NHNN quản lý rất chặt chẽ trong tất cả các khâu của quy trình, bắt đầu từ cân đo sản phẩm, kiểm tra series, đốt nấu và dập ra vàng miếng. SJC là đơn vị đã được chọn là thương hiệu quốc gia nên luôn luôn tuân thủ đúng các quy định của NHNN. Giá để gia công các miếng vàng chỉ là 140.000 đồng cho một lượng.
Theo bà Hằng, vấn đề chênh lệch giá vàng thì Công ty SJC hoàn toàn không có lợi. Công ty hoàn toàn tuân thủ theo chỉ đạo của NHNN. Trong 10 năm qua, SJC không được dập một miếng vàng nào từ nguyên liệu. Từ khi giao thương hiệu vàng, SJC mất hoàn toàn các lợi thế về kinh doanh và khi Nghị định được ban hành, lợi nhuận ròng của SJC giảm, từ hơn 300 tỷ-gần 400 tỷ/năm tới giờ chỉ đạt 74-80 tỷ lãi ròng. Như vậy, Công ty chỉ hoàn thành kế hoạch doanh số và lợi nhuận của thành phố, UBND thành phố giao để có quỹ lương cho người lao động.
“Về giá vàng trên thị trường, SJC không phải người thao túng hay làm giá. Bởi giá vàng do cung - cầu của thị trường quyết định. Việc đầu tiên khi lấy giá vàng là tham chiếu giá vàng thế giới, sau đó theo cung - cầu thực tế của thị trường, quyết định ra giá vàng. Không đơn vị nào có thể tự chủ động định giá trên thị trường. Thực tế, trên thị trường, các đơn vị TCTD, các doanh nghiệp kinh doanh vàng có thể có quyền từ chối mua và bán, nhưng SJC vì đã được lựa chọn là thương hiệu vàng miếng quốc gia nên đối với tất cả các nhu cầu mua - bán trên thị trường SJC đều phải thực hiện. Tất cả những khuyến mại, hậu mãi của vàng miếng SJC đều thực hiện đúng quy định”, bà Hằng nói và cho biết, số lượng vàng trên thị trường còn rất ít, bởi có những năm, những thời điểm, giá nguyên liệu và giá vàng SJC thấp hơn hoặc bằng, các thương hiệu trong nước nấu vàng miếng của SJC để sản xuất nhẫn và nữ trang. Đặc biệt, năm 2019, thị trường vàng xuất đi nước ngoài rất nhiều cho nên lượng vàng SJC trên thị trường hiện nay còn rất ít. Nguồn cung hiện tại không có trong khi nhu cầu thị trường có, do vậy tạo ra độ chênh về giá so với vàng thế giới.
Trước những thông tin này, trao đổi với PV Báo CAND, một chuyên gia kinh tế cho rằng những giải trình của SJC là chưa thỏa đáng, vì nếu SJC bảo nguồn cung không có, trong khi nhu cầu thị trường có nên mới tạo ra độ chênh lệch với thế giới tức là đang cho rằng chính khách hàng tự “làm giá” SJC.
“Tự dưng khách hàng được trao quyền quá lớn, mà ngay cả chính họ cũng không hiểu mình đã thực hiện quyền định giá bằng cách nào; hơn nữa, thật khó hiểu khi khách hàng tự móc thêm túi của mình bỏ vào túi doanh nghiệp chỉ để thực hiện quyền? Chưa kể, dù không có nguồn cung, song mọi nhu cầu mua bán vàng SJC của người dân đều được đáp ứng. Vậy nếu đã có thể đáp ứng, thì liệu nguồn cung có đến mức khan hiếm để phải tăng giá? Ngoài ra, khi chênh lệch giá vàng tăng càng cao, thì doanh nghiệp cũng kéo giãn khoảng cách mua-bán vàng lên cao tới vài triệu đồng mỗi lượng. Tiền chênh lệch này không vào túi doanh nghiệp thì vào túi ai?”, chuyên gia đặt vấn đề.
Cân nhắc sửa Nghị định 24
Ra đời từ năm 2012, Nghị định 24 về Quản lý thị trường vàng được đánh giá có tác dụng bình ổn thị trường vàng. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng, để kéo giá vàng về sát giá thế giới, cần sửa Nghị định 24 và bỏ độc quyền vàng miếng.
Đánh giá về vai trò của Nghị định 24, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho rằng Nghị định 24 đem lại sự ổn định thị trường vàng và góp phần hỗ trợ NHNN ổn định thị trường vàng, ngoại hối hơn 10 năm qua; không phải lo ngại về sự biến động thị trường vàng và tác động đến thị trường ngoại tệ. Thành công của Nghị định 24 là loại bỏ rủi ro giá vàng ra khỏi hoạt động của các TCTD. Ngoài ra, thị trường vàng trang sức mỹ nghệ được hình thành, tạo dựng, chất lượng được đảm bảo hơn, có khuôn khổ để kiểm soát chất lượng.
“Qua các ý kiến có một số nội dung của Nghị định 24 cần cân nhắc. Theo một số đơn vị kinh doanh vàng, vàng trang sức mỹ nghệ cũng là hàng hóa, có tiềm năng phát triển, đem lại nguồn thu cho đất nước, nhưng vấn đề khó khăn là vàng nguyên liệu. Nghị định 24 đã có khuôn khổ pháp lý cho nhập vàng nguyên liệu, nhưng vì mục tiêu chính sách tiền tệ theo từng thời kỳ, NHNN quyết định cấp phép, nhập khẩu vàng miếng. Việc này NHNN sẽ phối hợp với các doanh nghiệp để phân tích, đánh giá mục tiêu điều hành trong tổng thể chính sách vĩ mô để tham mưu đề xuất làm sao vừa thúc đẩy thị trường vàng trang sức mỹ nghệ, vừa hạn chế rủi ro”, bà Hồng cho biết.
Cũng theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, thực hiện Nghị định 24, NHNN phải kiểm soát việc sản xuất, cung ứng vàng miếng là do có những giai đoạn người dân có xu hướng đầu cơ vào vàng miếng. Nghị định 24 đã làm giảm bớt tình trạng đầu cơ vàng miếng này. Còn để hạn chế vàng hóa, đô la hóa nền kinh tế, chúng ta cần hướng tới phát triển một thị trường lành mạnh và hạn chế đầu cơ vàng. Cùng với đó, việc khuyến khích thị trường vàng trang sức mỹ nghệ như một ngành sản xuất hàng hóa, có cạnh tranh lành mạnh cũng là một vấn đề cần nghiên cứu kỹ lưỡng.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, việc sửa đổi Nghị định 24 cần đánh giá kỹ lưỡng, xem xét kỹ các ý kiến, cần có sự tham gia của nhiều bên liên quan và có sự đồng thuận trong xã hội.