Cơ quan điều tra kiến nghị “bịt” lỗ hổng trong lĩnh vực kiểm định, kiểm nghiệm sản phẩm
Trong vụ án xảy ra tại Công ty TNHH Khoa học TSL (viết tắt là Công ty TSL) và Công ty cổ phần Khoa học Công nghệ Avatek (viết tắt là Công ty Avatek), Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã kiến nghị cơ quan thẩm quyền “bịt” lỗ hổng pháp luật trong lĩnh vực kiểm định, kiểm nghiệm sản phẩm.
Như Báo CAND đã phản ánh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an hoàn tất kết luận điều tra và đề nghị Viện KSND tối cao truy tố 100 bị can trong vụ án xảy ra tại Công ty TSL và Công ty Avatek và các tổ chức, cá nhân liên quan.
Trong đó, bị can Đoàn Hữu Lượng (Chủ tịch HĐTV Công ty TSL) và bị can Hồ Thị Thanh Phương (Giám đốc điều hành Công ty TSL; sau đó là Giám đốc điều hành Công ty Avatek) bị đề nghị truy tố về tội “Giả mạo trong công tác” và tội “Đưa hối lộ”.
Kết luận điều tra xác định, từ năm 2020 đến tháng 5/2025, Đoàn Hữu Lượng đã giao cấp dưới làm giả 118.046 phiếu kết quả thử nghiệm cho 12.995 doanh nghiệp, cá nhân, hưởng lợi bất hợp pháp hơn 117 tỷ đồng.
Đến tháng 2/2023, Hồ Thị Thanh Phương thành lập Công ty Avatek và chỉ đạo cấp dưới làm giả 102.591 phiếu kết quả thử nghiệm cho 11.556 doanh nghiệp, cá nhân, hưởng lợi bất hợp pháp hơn 83 tỷ đồng.
Các phiếu kết quả thử nghiệm giả này được các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng để lập hồ sơ tự công bố, đăng ký công bố sản phẩm, công bố hợp quy, công bố chất lượng sản phẩm, kiểm tra hậu kiểm quá trình sản xuất hoặc phục vụ thanh kiểm tra, đấu thầu và xuất nhập khẩu hàng hoá.
Các phiếu kết quả thử nghiệm bao gồm các mặt hàng thực phẩm, phụ gia thực phẩm, thủy sản, môi trường, dược phẩm…
Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã xác định có những sơ hở, thiếu sót trong hệ thống văn bản pháp luật và công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực quản lý mẫu kiểm nghiệm, thử nghiệm dẫn đến việc tội phạm lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội.
Theo cơ quan điều tra, Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm, điều chỉnh các quy định về thủ tục an toàn thực phẩm nhưng không quy chuẩn hóa bắt buộc một mẫu biểu mã hóa chung cho mọi kiểm nghiệm, tạo khoảng trống giữa chuẩn hành nghề và thực tế vận hành.
Điểm chung trong hầu hết hồ sơ kiểm nghiệm giả là không có biên bản tiếp nhận mẫu, không mã hóa mẫu và không có bất kỳ bằng chứng nào chứng minh mẫu đã được gửi vào phòng thử nghiệm… Nền tảng kiểm soát đầu vào - yếu tố cốt lõi của kiểm nghiệm gần như bị bỏ trống.
Cơ quan điều tra nhận thấy, hiện nay nhiều văn bản chuyên ngành như: Nghị định 15/2018/NĐ-CP (về an toàn thực phẩm), Thông tư 11/2020/TT-BYT (về kiểm nghiệm thuốc) ... đều có quy định về kiểm nghiệm, nhưng không có mẫu biểu và quy trình thống nhất về tiếp nhận - mã hóa - lưu mẫu. Điều này dẫn tới thực tế, nhân viên kiểm nghiệm chỉ cần tự tạo số mẫu, tự lập phiếu kết quả mà không có sự kiểm chứng từ hệ thống.
Ngoài ra, khoảng trống pháp lý khác là theo quy định hiện hành, không có văn bản nào bắt buộc các phòng thử nghiệm trong lĩnh vực thực phẩm, dược phẩm, môi trường… phải đạt ISO.
Do không có ISO, các quy trình như niêm phong mẫu, nhật ký thiết bị, phân quyền ký phiếu ... đều bị buông lỏng. Việc không bắt buộc ISO là một lỗ hổng pháp lý khiến chuẩn mực nghề nghiệp không được đảm bảo, dẫn tới việc nội bộ tự ý điều chỉnh hoặc lập phiếu khống, phiếu giả rất dễ dàng mà không bị phát hiện.
Quy định pháp luật về điều kiện cấp phép, cấp chứng nhận kiểm định, kiểm nghiệm chưa cụ thể, còn để ngỏ cho sự tùy nghi của cán bộ tham mưu, phê duyệt. Nhiều tiêu chí còn mang tính định tính như “đủ năng lực nhân sự”, “có trang thiết bị phù hợp”…; nhiều khái niệm chưa được lượng hóa bằng tiêu chí cụ thể.
Cơ quan điều tra cũng chỉ ra những bất cập trong cơ chế hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước, qua đó tạo ra khoảng trống khiến các hành vi phạm tội có điều kiện phát sinh, tồn tại, kéo dài trong nhiều năm.
Đó là cơ chế phân cấp, phân quyền trong thẩm định, cấp phiếu kết quả thử nghiệm còn chưa rõ ràng. Điều này dẫn đến mỗi cơ quan, đơn vị áp dụng tiêu chuẩn và quy trình kiểm tra khác nhau.
Ngoài ra, quy trình tiếp nhận - xử lý - lưu trữ hồ sơ kiểm nghiệm tại một số đơn vị vẫn được thực hiện bằng phương pháp bán thủ công, không áp dụng hệ thống số hóa đồng bộ. Mặt khác, thiếu sự liên thông giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành dẫn đến hạn chế trong giám sát.
Một số trường hợp doanh nghiệp nộp hồ sơ tại một cơ quan nhưng việc xác minh năng lực lại dựa trên thông tin cung cấp trực tiếp từ doanh nghiệp, không qua đối chiếu độc lập. Đây là kẽ hở khiến một số doanh nghiệp cấu kết với cán bộ có thẩm quyền để “hợp pháp hóa” năng lực không có thật và dễ dàng được cấp phép hoạt động.
Điểm đáng chú ý là hành vi đưa hối lộ gắn với lĩnh vực cấp phép kiểm nghiệm không chỉ diễn ra trong từng vụ việc riêng lẻ mà có dấu hiệu trở thành một dạng “dịch vụ ngầm”, tồn tại dai dẳng do sự thiếu minh bạch trong quy trình thẩm định, cấp phép và kiểm tra sau cấp phép.
Điều này tạo ra môi trường thuận lợi để các đối tượng lợi dụng, hình thành “lợi ích nhóm”, đe dọa tính khách quan, công bằng trong quản lý nhà nước.
Từ những bất cập trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an kiến nghị, cần rà soát toàn diện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; tăng cường kiểm tra đột xuất theo cơ chế “hậu kiểm chủ động”; xây dựng và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử quốc gia về kiểm nghiệm; tăng trách nhiệm của người đứng đầu trong lĩnh vực cấp phép, quy định rõ chế tài khi để xảy ra tham nhũng…