Ngô Tự Lập và “Hàn thử biểu tâm hồn”

19:00 29/09/2008
Ngô Tự Lập có lẽ đã "đi xa" hơn Trần Đăng Khoa (về sự pha trộn thể loại) khi trong cuốn sách dày ngót 300 trang này, anh cho tập hợp rất nhiều dạng bài: Từ các bài khảo cứu văn hóa, tiểu luận, phê bình, chân dung văn học, các bài báo về nhiều lĩnh vực nghệ thuật, thơ (sáng tác) và thơ dịch; truyện dịch, một đôi bài điểm báo… và cuối cùng là loạt bài phỏng vấn mà tác giả lại là người… được hỏi.

Nhà văn Ngô Tự Lập vừa cho ra mắt bạn đọc cuốn "Hàn Thử biểu tâm hồn" - cuốn sách mà anh cho ghi ở ngoài bìa tên thể loại là: "Tiểu luận - đối thoại". Nếu như trước đây, người đọc thường được tiếp xúc với những cuốn sách có cấu trúc thể loại chặt chẽ, thể loại nào đi thể loại ấy, không chút "pha tạp", thì ít năm trở lại đây, họ đã quen dần với những cuốn có kết cấu… mở: Trong cùng một cuốn mà đủ cả bút ký, phê bình, trả lời phỏng vấn, đoản văn (sách xuất bản lần đầu mà như… tuyển tập vậy).

Ngay cuốn sách nổi đình đám như "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa, mặc dù tác giả đã đề ngoài bìa là "Bình luận văn chương", song vẫn không ít ý kiến tỏ ra băn khoăn không biết xếp nó thuộc loại gì. Đến độ, nhà văn Lê Lựu đã phải "dập" đi vấn đề này bằng một phát biểu rất… nhà văn: "Sách Chân dung và đối thoại không thể liệt được vào loại sách gì, mà chỉ nên xếp nó vào loại sách hay".

Ngô Tự Lập có lẽ đã "đi xa" hơn Trần Đăng Khoa (về sự pha trộn thể loại) khi trong cuốn sách dày ngót 300 trang này, anh cho tập hợp rất nhiều dạng bài: Từ các bài khảo cứu văn hóa, tiểu luận, phê bình, chân dung văn học, các bài báo về nhiều lĩnh vực nghệ thuật, thơ (sáng tác) và thơ dịch; truyện dịch, một đôi bài điểm báo… và cuối cùng là loạt bài phỏng vấn mà tác giả lại là người… được hỏi.

Vậy, ta có thể nói về cuốn sách của Ngô Tự Lập như nhà văn Lê Lựu đã nói về cuốn sách của Trần Đăng Khoa không, rằng thì đây là cuốn sách "không thể được liệt vào loại sách gì, mà chỉ nên xếp nó vào loại sách hay"? Câu trả lời còn chờ công chúng và thời gian, nhưng chắc chắn với riêng tôi, Ngô Tự Lập không nằm trong số những tác giả tầm phào, nhạt nhẽo.

Các bài viết của anh, dù đây đó còn đôi chút "làm dáng", trích dẫn ngoại ngữ nhiều, sử dụng điển cố, điển tích hơi… ngoài mức cần thiết, song ít nhiều vẫn gợi mở cho ta những nhận thức mới, hoặc kéo ta vào một cuộc phiêu liêu trí tuệ, khiến ta muốn bảo vệ được một quan điểm cố hữu nào đó của mình thì không thể không có những thao tác tìm tòi, mở mang kiến thức.

Chỉ cần liệt kê loạt tên bài của Ngô Tự Lập cũng có thể thấy anh có tham vọng xới lại một số vấn đề cũng như thu hút độc giả cùng tham gia vào "cuộc chơi" của mình. Đó là các bài "Sách bestseller như là hàn thử biểu tâm hồn"; "Toàn cầu hóa và chuyện thịnh - suy của văn học"; "Ai là cha đẻ thực sự của thơ Bút Tre?"; "Tiếng Việt có chính xác không?"; "Vì sao môn văn nhà trường không hấp dẫn?"; "Aristotle là kẻ đạo văn lớn nhất mọi thời đại?".

Ngay ở những bài có tiêu đề không thật gay cấn thì vẫn gợi cho người đọc một sự tò mò: "Y Ban: mắt thần và mắt người"; "Thái Bá Tân - cỗ máy dịch vĩnh cửu"; "Ngã ba Đồng Lộc" vẫn còn đang ở ngã ba điện ảnh Việt Nam"…

Thật ra, có những bài, "phát kiến" của Ngô Tự Lập không có gì lớn, nhưng lại cần thiết, nhất là đối với những bạn đọc trẻ và những người ít có điều kiện tiếp xúc với thơ Pháp qua nguyên bản. Như bài "Từ "Đi là chết…" trong thơ Edmond Haraucourt đến "Yêu là chết" trong thơ Xuân Diệu". Bài viết này đã được in trên tạp chí Văn hóa - Văn nghệ Công an (nay là Văn nghệ Công an) cách đây ít năm.

Trong bài viết, Ngô Tự Lập đã đích thân dịch bài thơ "Khúc rông-đô giã biệt" của nhà thơ Pháp nói trên ra tiếng Việt và đối sánh nó với bài thơ trứ danh "Yêu" (Yêu, là chết ở trong lòng một ít/ Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?/ Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu: /Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết") của Xuân Diệu. Có thể đây chỉ là cái cớ để Ngô Tự Lập giới thiệu bản dịch của anh với độc giả?

Có thể anh muốn người đọc có thêm cứ liệu để khi thưởng thức bài thơ của Xuân Diệu, sự liên tưởng của họ sẽ được rộng mở hơn? Và mặc dù Ngô Tự Lập có khẳng định trong bài: "Chắc chắn bạn đọc nhận ngay ra sự tương đồng đáng ngạc nhiên giữa hai bài thơ này, không chỉ tứ thơ, mà cả về hình thức thể hiện…", song những người biết chuyện hẳn không ai cho rằng anh có ý gây nên một xìcăngđan trong văn giới, bởi thực chất, trước đây, trong lần nói chuyện tại một trường đại học ở Pháp (cũng như viết trong sách), nhà thơ Xuân Diệu cũng đã tiết lộ sự vay mượn của mình đối với thơ Pháp (ngoài Haraucour, ông còn nêu hai trường hợp nữa đã có ảnh hưởng tới ông khi sáng tác bài "Yêu").

Điều đáng nói là, thông qua bài viết này, Ngô Tự Lập đã cung cấp cho bạn đọc một bản dịch hay. Và, ý nghĩa hơn, ấy là dù tiếp xúc với bài thơ Pháp nói trên, trong ta không hề suy giảm tình yêu đối với bài thơ "lai tây" của Xuân Diệu.

Tương tự vậy, trong bài "Tôi yêu em, bài thơ không hình ảnh", sau khi đưa ra bản dịch nghĩa của mình về bài thơ "Tôi yêu em" của thi hào Nga A.Puskin và đối sánh nó với bản dịch của dịch giả Thúy Toàn, Ngô Tự Lập mặc dù cho rằng "ở hai câu cuối cùng, cũng là hai câu Thúy Toàn đã hiểu sai ý tác giả", song anh cũng chỉ có ý định góp phần bổ sung thêm một cách cảm nhận về bài thơ trứ danh của nhà thơ Nga chứ không hề muốn "lung lạc"(và thực tế cũng không "lung lạc" được) người đọc trước một bản dịch thơ từng ăn sâu vào ký ức độc giả Việt Nam mấy chục năm nay.

Bản thân anh, ở cuối bài viết cũng đã bày tỏ thái độ của mình: "Viết những dòng này, với tư cách độc giả, tôi muốn tỏ lòng biết ơn đến dịch giả Thúy Toàn, người đã cho tôi biết Puskin trước khi tôi biết tiếng Nga. Bất kỳ bản dịch nào cũng cần phải sửa chữa nhiều lần. Tôi không có ý định đưa ra bản dịch của mình, vì Thúy Toàn xứng đáng là người tự chỉnh trang lại bản dịch". Phải khẳng định, đây là một thái độ rất lịch thiệp trong trao đổi học thuật. Nó giúp cho những ý kiến mới mẻ của anh dễ được người đọc tiếp nhận hơn.

Là người sáng tác kiêm dịch thuật, có vẻ như Ngô Tự Lập rất thích trao đổi và đề cập tới các hoạt động của những tác giả có chung sở trường với mình. Bài anh viết về nhà văn - dịch giả Thái Bá Tân đã đưa đến cho độc giả một cách mổ xẻ bất ngờ và không phải… không có lý. Ấy là khi Ngô Tự Lập đưa nhận xét: "Anh là một dịch giả có tên tuổi và thực chất lúc nào cũng là dịch giả"; "không có gì đáng ngạc nhiên nếu trong thơ của anh ta gặp Lý Bạch hay Basho, trong truyện của anh ta gặp Maupassant hay Trekhov".

Có thể những nhận xét này sẽ làm cho ai đó tự ái, nhưng thực tế, qua gặp gỡ, trao đổi với nhà văn, dịch giả Thái Bá Tân, chúng tôi nhận thấy, dù chưa hẳn đã đồng nhất hoàn toàn, song anh vẫn tôn trọng ý kiến của Ngô Tự Lập. Dĩ nhiên, cũng có người cho cách nhìn nhận vấn đề như thế là… nghiệt ngã, rằng Thái Bá Tân không phải không có những đóng góp đáng nể trong lĩnh vực sáng tác. Nhưng ta cần hiểu, ở đây Ngô Tự Lập muốn đặt Thái Bá Tân ở một vị trí cao để mà bình xét. Đó là cuộc chơi của những "người lớn với nhau".

Bứt lên khỏi những vụ việc cụ thể, tập sách của Ngô Tự Lập dành một số trang thích đáng cho những vấn đề mà anh xem là "mối bận tâm của số đông". Tuy nhiên cũng phải nói ngay, ở phần này, mặc dù cách lý giải vấn đề của Ngô Tự Lập không phải không có chỗ thuyết phục (như khi anh nhận định: "Nền kinh tế tư bản toàn cầu hóa không cần biết đến các quốc gia dân tộc, cũng chẳng cần đến chủ thể văn hóa dân tộc. Nhưng sự tàn lụi của khoa học xã hội đặt ra một câu hỏi: Làm sao có thể có một xã hội dân chủ nếu như người dân bị biến thành những cỗ máy lao động và tiêu thụ chứ không được đào tạo để suy nghĩ như những chủ thể chính trị độc lập. Rất nhiều người, trong đó có tôi cho rằng đây chính là vấn đề lớn nhất của giáo dục ngày nay, trước hết là ở Hoa Kỳ" - bài "Toàn cầu hóa và chuyện thịnh - suy của môn văn học"; hoặc khi anh phân chia giới nhà văn ra làm 2 loại và cho rằng "những người sáng tác bằng kinh nghiệm trực tiếp có thể độc đáo nhưng thường chóng lặp lại mình và nhiều người chỉ có một tác phẩm. Những tác giả lớn bao giờ cũng là những người học rộng, đọc nhiều, đi nhiều, tóm lại là phải sáng tác bằng kinh nghiệm gián tiếp"- bài "Về quỹ dịch thuật Phan Chu Trinh và văn hóa đọc"), song cũng có những bài tiêu đề thì lớn mà vấn đề giải quyết lại có phần… đơn giản.

Như bài "Truyện ngắn Việt Nam có ngang tầm thế giới?", tác giả dẫn lời một nhà văn nữ cho rằng nếu so sánh với truyện ngắn Mỹ đương đại thì "truyện ngắn Việt Nam không đến nỗi tồi", và cả bài viết của anh dành để chứng minh cho "việc đánh giá sai lầm" này. Theo Ngô Tự Lập thì sở dĩ nhiều người có suy nghĩ đó là vì nghề dịch thuật của chúng ta còn chưa làm tròn sứ mệnh của mình. Thiết nghĩ, không phải ý kiến nào cũng cần phải tranh luận. Làm vậy là dùng đại đao để… mổ chim sẻ.

Ngô Tự Lập là tác giả có cách hành văn mạch lạc, tư duy sáng rõ. Tuy nhiên, hẳn vì chưa xác định rõ đối tượng đọc sách của mình nên có chỗ anh hơi rậm lời. Sự liệt kê, trích dẫn một cách thừa thãi cũng làm cho một số bài viết trở nên nặng nề (như các bài "Sách bestseller như là hàn thử biểu tâm hồn'; "Sứ mệnh của vần điệu", kể cả bài "Toàn cầu hóa và sự thịnh - suy của môn văn học").

Việc anh theo đuổi những mối quan tâm riêng của mình mà không thật quan tâm đến việc thông tin mà anh đưa ra đã bị thời đại Internet "qua mặt" hay chưa đã khiến một số cuộc tranh biện của anh đưa anh vào tình thế của người "tỉ thí với cối xay gió" - như có nhà phê bình văn học đã nhận xét.

Dẫu vậy cũng phải công bằng mà nhìn nhận rằng, một số bài viết có hàm lượng thông tin cao của Ngô Tự Lập, như các bài "Từ bản Tuyên ngôn Độc lập đến việc học ngoại ngữ của Hồ Chủ tịch", "Jean Sary- nhà thơ Pháp dịch Hồ Xuân Hương", "Những ngọn đuốc sống mãi" - những bài kết hợp khá nhuần nhị giữa cảm xúc và vốn kiến thức của tác giả - luôn là những bài tạo được dư ba trong lòng bạn đọc.

Trong một bài trả lời phỏng vấn, Ngô Tự Lập đã tự tin cho biết: "Năm vừa rồi tôi có in hai cuốn, tập tiểu luận "Minh triết của giới hạn" và tập truyện ngắn "Giấc ngủ kỳ lạ của ông Lương Tử Ban". Cuốn "Minh triết của giới hạn", như người làm sách cho biết, hiện thuộc loại bán chạy nhất trong các sách nghiên cứu".

Cuốn "Hàn thử biểu tâm hồn" của Ngô Tự Lập vừa mới được NXB Hội Nhà văn cho phát hành. Hy vọng nó sẽ tiếp tục được thừa hưởng sự quan tâm của độc giả như một số cuốn sách của cùng tác giả đã xuất bản trước đó

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Công an, Công an tỉnh Thái Nguyên đã triển khai kế hoạch cao điểm cấp Căn cước công dân (CCCD) gắn chip, đến ngày 27/5/2023 đã hoàn thành cấp 100% CCCD gắn chip cho những người đủ điều kiện (sớm hơn 65 ngày so với chỉ đạo của Bộ). Qua "mục sở thị" những mô hình điểm về chuyển đổi số tại Thái Nguyên, tôi nhận thấy CCCD gắn chip đã trở thành một phần tất yếu, thiết thực phục vụ người dân, doanh nghiệp, mà hai mô hình điểm thể hiện rõ nhất là: "Khám chữa bệnh sử dụng thẻ CCCD và VNeID" và "Triển khai tại các cơ sở kinh doanh có điều kiện về ANTT".

Ngày 2/5, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tống đạt các quyết định khởi tố bị can, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, khám xét nơi ở và nơi làm việc đối với ông Phạm Minh An (SN 1964, Giám đốc Sở Y tế tỉnh) về tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu qua nghiêm trọng". 

Công an các đơn vị, địa phương đã tập trung triển khai phương án bảo đảm ANTT các hoạt động kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Ngày Quốc tế lao động và các hoạt động kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5), chấp hành nghiêm túc chế độ trực ban, trực chiến bảo đảm quân số ứng trực, nắm chắc tình hình, triển khai thực hiện có hiệu quả các phương án bảo đảm ANTT, TTATGT, phòng, chống cháy, nổ...

Dưới cái nắng oi bức của mùa hè cộng thêm gió Lào khô rát khiến người ta ở trong nhà hay dưới bóng râm vẫn cảm thấy khó chịu, thế nhưng hơn 1 tháng nay, CBCS Công an Điện Biên vẫn luôn thường trực 24/24 tại các nút giao thông, các điểm di tích lịch sử và nơi diễn ra các hoạt động, sự kiện hướng tới kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Những việc làm của các anh góp phần quan trọng đảm bảo an ninh, an toàn cho các đồng chí lãnh đảo Đảng, Nhà nước, các sự kiện và du khách thập phương đến với Điện Biên.

Chiều tối 1/5, sau kỳ nghỉ lễ 30/4 kéo dài, dòng người từ các tỉnh miền Đông, miền Tây sử dụng phương tiện cá nhân, đi xe khách… bắt đầu trở lại TP Hồ Chí Minh làm việc. Không như những ngày đầu nghỉ lễ, ghi nhận trong chiều tối 1/5, dòng người di chuyển trên đường khá lớn nhưng không gây ùn ứ nghiêm trọng…

Việc phát triển điện mặt trời mái nhà (ĐMTMN) đáp ứng nhu cầu phát triển điện sạch, sử dụng được nguồn năng lượng tái tạo (mặt trời) mà Việt Nam có nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, để việc cung cấp điện cho các hộ sử dụng điện có đầu tư ĐMTMN ổn định, thì phải tính đến hoạt động của ĐMTMN trong hoạt động chung của toàn hệ thống điện.

Ngày 1/5, ngày cuối cùng của kỳ nghỉ Lễ 30/4 - 1/5, trái với dự đoán về tình hình ùn tắc có thể xảy ra thì giao thông tại khu vực cửa ngõ phía Nam Thủ đô lại rất thông thoáng. Người dân trở về Hà Nội di chuyển một cách thuận lợi qua các "điểm nóng".

©2004. Bản quyền thuộc về Báo Công An Nhân Dân.
®Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Công An Nhân Dân.
English | 中文