Quả bầu - "vật tổ", vật thiêng!
Một bảo bối nổi tiếng thần thông biến hóa trong “Tây du ký” (Ngô Thừa Ân) là hồ lô dùng để thu phục đối thủ hoặc làm phương tiện đi lại. Nguồn gốc của nó rất xa xưa, từ thời trời đất còn hỗn độn, Thái Thượng Lão Quân hái trái hồ lô ở núi Côn Lôn đem về đựng thuốc trường sinh.
Sau này thầy học của Lão Tử là Hồ Tử (nước Trịnh thời Xuân Thu), có biệt danh là Hồ Lô. Trò Lão Tử gọi thầy Hồ Lô là “Thiên Địa căn” (gốc của đất trời).
Ở nhiều dân tộc phương Đông, hồ lô là vật tổ, biểu tượng của sự sống và dòng giống. Mang tính nữ gắn với sự sinh sôi, cổ xưa xuất hiện tín ngưỡng thờ “hồ lô mẫu” - hình thức ban đầu của tín ngưỡng phồn thực. Dần dần hồ lô biểu trưng của nguồn cội, là nơi trú ngụ của tổ tiên. Đến nay vẫn có vùng đặt hồ lô lên bàn thờ tổ tiên. Cá biệt có nghi lễ rước linh hồn người chết vào trú trong hồ lô.
Chùm thần thoại về y học kể Phí Trường Phòng được thầy học Hồ Công hóa phép cho vào chiếc bình hồ lô nhỏ. Vào đó Trường Phòng sửng sốt khi thấy cảnh tượng giống như chốn bồng lai tiên cảnh. Tích này cắt nghĩa vì sao những người hành nghề y xưa thường hay dùng hồ lô để đựng thuốc. Đựng thuốc tức đựng cả cuộc sống, sự sống trong đó. Thế là quả hồ lô trở thành biểu tượng của y học cổ đại.
Có cấu tạo đặc biệt: miệng nhỏ, bụng to, rỗng trong; hình dáng bên ngoài chia hai phần, thắt ở giữa gợi ra ý niệm nửa trên là Trời, nửa dưới là Đất, dần dần được coi là biểu tượng của sức khỏe và sự trường thọ. Với Đạo thần tiên, hồ lô là pháp khí thần diệu.
Kể rằng Lý Thiết Quải, một trong tám vị Tiên bất tử (Bát Tiên) râu dài, tay cầm nạng sắt, vai đeo quả bầu. Là người nóng nảy, nhưng lại nhân từ, thường dùng tiên dược đựng trong quả bầu chữa bệnh cho người nghèo, ông Thọ trong “Tam Đa” (Phúc, Lộc, Thọ) râu tóc bạc phơ, mang trên mình trái đào tiên và quả hồ lô chứa nước trường sinh.
Trong tín ngưỡng hôn nhân cổ, tối động phòng, cô dâu chú rể mỗi người cầm một nửa quả hồ lô đựng rượu đào cùng uống với cái ý: hai nửa quả kết hợp với nhau thành trái cây gia đình viên mãn. Hai vợ chồng sẽ suốt đời say nhau như say rượu!!!
Quả hồ lô thần tiên chính là phái sinh từ quả bầu.
Phật giáo cũng có hình ảnh bình hồ lô (bình linh thủy) đựng nước tạo sự sống hoặc linh vật trừ tà. Trong truyền thuyết, hình ảnh Phật Dược Sư có tay phải kết Ấn thí nguyện, tay trái cầm chiếc bình hồ lô đựng diệu dược dành cứu bệnh khổ cho chúng sinh.
Hình ảnh quả bầu trong quan niệm Phật giáo tượng hình rõ nhất trong hình ảnh tháp Thạt Luổng ở Viêng Chăn (Lào). Gây ấn tượng bởi kiến trúc cổ đại, pha trộn phong cách Ấn Độ với phong cách truyền thống Lào, hình tượng quả bầu đặt ở trung tâm, từ xa nhìn tháp như một đài sen năm cánh vàng rực khổng lồ được phủ 500kg vàng lá. Hình ảnh quả bầu còn gợi về truyền thuyết các dân tộc Lào chung một nguồn gốc.
Là loại cây dây leo dễ trồng, thích nghi với mọi địa hình phức tạp nên ở đâu cũng có thể trồng bầu. Có đặc tính tươi lâu, giàu dinh dưỡng, quả bầu là loại thức ăn quen thuộc của cư dân châu Á. Quả bầu già moi ruột, phơi khô sẽ cho màu vàng óng, nếu ngâm bùn cho màu đen, rất tiện dụng, bền, nhẹ, để đựng hạt giống, dược liệu, rượu, nước… Là vật nổi, có thể làm phao bơi…
Gần gũi, thân thiết, vỏ quả bầu được thiêng hóa, có mặt trong các nghi lễ tôn giáo, để cầu cúng thần linh, hay trừ tà. Đồng bào các dân tộc trên đất Việt càng thân thiết với quả bầu. Trong lễ cúng cầu hồn cho trẻ em khi bị ốm đau, người Dao dùng nửa quả bầu khô làm biểu tượng chiếc thuyền với ý mời thần linh về nhà chữa bệnh.
Người Khơ Mú treo quả bầu khô vào cây cột chính với ý tôn thờ “tổ” của mọi dân tộc sinh ra từ “quả bầu mẹ”. Trong các lễ hội Ê Đê, quả bầu đựng nước là lễ vật thiêng dâng lên Giàng. Với người Ê Đê, vỏ quả bầu quen thuộc như áo mặc, đi đâu cũng bên mình. Nhắc nhớ về cội nguồn, nhắc đoàn kết với người cùng uống chung một nguồn nước, bầu rượu…
Vỏ quả bầu đi vào đời sống tinh thần nhiều dân tộc với tư cách là vật liệu cơ bản để làm nên nhiều loại đàn. Có đặc tính nhẹ, vang, vỏ quả bầu được chọn làm hộp cộng âm - bộ phận quan trọng nhất, quyết định chất lượng âm thanh; cho nhạc cụ đàn dây, sáu dây, ba dây, đàn bruk-chơ ngoi, đàn brang của dân tộc Xơ Đăng; đàn tinh nưng, đàn brov Ba Na; đàn tinh ninh Giẻ Triêng; đàn bầu La Hủ...
Nhạc cụ làm thế giới ngạc nhiên là đàn bầu của người Kinh (Việt). Một cây đàn bầu cổ truyền có mặt đàn là gỗ cây ngô đồng xốp, nhẹ; khung, thành đàn là gỗ trắc, gụ; cần đàn bằng sừng trâu; bầu đàn là vỏ quả bầu hình dáng tròn đều, vàng bóng: “Lắng tai nghe, đàn bầu/ Thánh thót trong đêm thâu/ Tiếng đàn bầu của ta/ Cung thanh là tiếng mẹ/ Cung trầm là giọng cha…”.
Bí quyết để có tiếng đàn bầu âm vực rộng, âm sắc đẹp, ngọt ngào trong trẻo, trữ tình, mộc mạc, duyên dáng nói lên tâm hồn, tình cảm người Việt, điều cơ bản, quan trọng là ở bầu đàn tạo ra âm thanh luyến láy mềm mại, như hút hồn người: “Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu”.
Đàn tính là nhạc cụ độc đáo nhất của dân tộc Tày, Giáy, Kháng réo rắt, rạo rực vang lên trong lễ cúng then, lễ hội, các sinh hoạt văn hóa văn nghệ. Đàn tính 3 dây được làm bằng tơ se, tượng trưng cho cha, mẹ và đất nước. Bầu đàn là nửa vỏ quả bầu già, tròn đều, biểu trưng cho vật tổ nơi con người sinh ra.
Trong nhiều truyện cổ của đồng bào các dân tộc Việt Nam có chung motif con người đi ra từ quả bầu. Người đi trước xuống đồng bằng, em út còn lại trên núi cao. Truyện mang ý nghĩa giáo dục về sự đoàn kết, thương yêu nhau, tất cả đều chung một gốc. Lại có nhiều truyện kể từ quả bầu, thóc lúa chảy ra - tức nguồn sống của con người.
Như vậy quả bầu là “vật tổ” của nhiều dân tộc: sinh ra người, nuôi dưỡng người. Trong tín ngưỡng, biểu tượng vẫn đậm tính “thiêng” ở một số dân tộc Tây Nguyên: vỏ quả bầu đựng rượu, thịt, tiết các con vật… để cúng tế. Nhau thai đựng trong vỏ quả bầu, chôn xuống đất. Tiện dụng cho sinh hoạt hằng ngày, những quả bầu tròn để đựng cơm mang đi nương, để đựng canh, rau, làm gáo múc nước, muôi, phễu múc canh, múc rượu...
Trong văn học dân gian, “bầu rượu” được nhắc tới nhiều. Truyện Nôm “Trê Cóc” kể nhân vật Cóc thắng kiện trở về, cả làng mừng rỡ chia vui: “Tạ từ Cóc trở ra về/ Vợ chồng mừng rỡ đề huề ngổn ngang/ Bước ra khỏi chốn công đường/… Kẻ đòi bầu rượu người xin bao chè”. Cảnh vui vẻ chẳng khác gì đời sống con người, các hành động “đòi”, “xin” chia vui vừa có cái suồng sã, bỗ bã, rất “người”. Màn rước đám hỏi của Sơn Tinh (truyện “Chàng Chuối”), có: “Đười ươi khiêng quả bánh chưng/ Đôi con Khỉ độc kim đằng bảo châu/ Hai Vượn gánh quả giầu cau/ Hươu bưng quả bánh, Hầu bầu rượu tăm”.
Cụ Ức Trai có câu: “Nhất hồ bạch tửu tiêu trần lự” (Một bầu rượu trắng tiêu tan nỗi lo buồn trần tục). Bầu rượu là hình tượng quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi: “Túi thơ bầu rượu quản xình xoàng/ Khỏe dụng đầm hâm mấy dặm trường”. Nhờ có “túi thơ bầu rượu” tức nhờ nghệ thuật, con người mới thêm ấm áp (đầm hâm) để thêm sức lực trên đường đời xa.
Truyện “Hai ông Phật cãi nhau” (Lê Thánh Tông) kể chuyện giữa cảnh nước lụt, hai tượng Phật cãi nhau, đổ lỗi cho nhau bất tài không giúp được dân, thì Phật Thích Ca “tay xách bầu rượu, dáng say lảo đảo” bước vào mắng cả hai. Tất cả đều đáng cười: hai tượng Phật bất tài, Phật Thích Ca cũng vô dụng và phạm “giới luật” (uống rượu), lại còn “dạy dỗ” người khác.
Theo quan niệm xưa, bậc quân tử phải sành “Cầm kì thi họa/tửu”, cùng “bầu rượu túi thơ” để “dọc trời đất dọc ngang ngang dọc” (Nguyễn Công Trứ). Phải chăng nhờ thế mà cụ Trứ trở thành “ông tổ” nghệ thuật ca trù (hát nói): “Cuộc tỉnh say bầu rượu chén trà/ Cơn đắc ý thùng thùng ba tiếng trống” (Cầm kì thi tửu). Hình tượng “bầu rượu” là có thật. Rượu được rót vào vỏ quả bầu khô nhỏ, rất tiện cho việc đeo/mang trên người. “Túi thơ” cũng là hình ảnh thật - túi đựng “ống quyển” đựng thẻ tre, sau này là giấy.
Thời hiện đại, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm tả bầu bí rất giỏi, trữ tình, sâu lắng, cảm động: “Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/ Còn những bí những bầu thì lớn xuống/ Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn/ Nhỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi” (Mẹ và quả).
Đất nước mình có 54 dân tộc nhưng đều từ một quả bầu mà ra. Một truyền thuyết thật hay. Quả bầu cũng mang nghĩa “một bọc” trong “Sự tích trăm trứng”. Thế nên hai chữ “đồng bào” thật thiêng liêng với mọi người dân Việt.