Những nội dung cốt lõi trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tiếp theo số 3736)
- Những nội dung cốt lõi trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng
- Những nội dung cốt lõi trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tiếp thep số 3734)
- Những nội dung cốt lõi trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng
- Những nội dung cốt lõi trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng
- Những nội dung cốt lõi trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tiếp theo số 3731)
V. Về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu
Nhận thức về tầm quan trọng của việc quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu là một quá trình. Trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng, việc xây dựng cơ sở khoa học cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, phòng tránh, giảm nhẹ hậu quả thiên tai được giao thành trách nhiệm của khoa học tự nhiên và chính sách bảo vệ môi trường được gắn với các chính sách xã hội. Đến Đại hội X, lần đầu tiên trong Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2006 - 2010 trình Đại hội đã đưa ra chỉ tiêu về môi trường (tỷ lệ che phủ rừng; tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch; chỉ tiêu xử lý chất thải,...) và "tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên" được xác định là một trong sáu nhiệm vụ thuộc "Định hướng phát triển ngành, lĩnh vực và vùng".
Bước vào thế kỷ XXI, khủng hoảng tài nguyên, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trở thành vấn nạn mang tính toàn cầu. Tháng 9/2000, Chính phủ nước ta đã cam kết thực hiện Tuyên bố Thiên niên kỷ (còn gọi là Chương trình nghị sự 21), trong đó bảo đảm bền vững về môi trường là một trong tám mục tiêu cụ thể. Đại hội XI của Đảng đã đặt vấn đề "Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai" thành một định hướng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, là một trong những nhiệm vụ quan trọng của kế hoạch 5 năm 2011 - 2015 gắn với phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức. Trước nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và những diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu, Hội nghị Trung ương 7 khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW "Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường".
Nhận rõ tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đối với sự nghiệp phát triển bền vững đất nước trong những năm sắp tới, Dự thảo văn kiện đã trình bày nội dung này thành một vấn đề riêng.
1. Về đánh giá tình hình
Dự thảo văn kiện đã đánh giá tình hình như sau:
- Những kết quả nổi bật:
Nhận thức về tầm quan trọng của tài nguyên, khai thác và quản lý tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu được nâng lên.
Nhà nước đã xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý các lĩnh vực này; công tác kiểm tra, thanh tra việc thực thi và xử lý vi phạm được coi trọng; đã thành lập các cơ quan nghiên cứu và dự báo, quản lý rủi ro.
Việc quản lý, sử dụng đất đai, nguồn nước, khoáng sản chặt chẽ và hiệu quả hơn; các biện pháp bảo vệ môi trường, phòng ngừa và xử lý cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được tích cực thực hiện; nhiều dự án ứng phó với biến đổi khí hậu kết hợp với phòng, chống thiên tai được triển khai.
Hợp tác quốc tế về quản lý tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai được đẩy mạnh; đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế về các lĩnh vực này.
- Những hạn chế, yếu kém:
Quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu nhiều mặt còn hạn chế; pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm chưa nghiêm; công tác điều tra cơ bản, quy hoạch, dự báo chưa đáp ứng yêu cầu; việc giao quyền quản lý, khai thác, sử dụng đất đai, khoáng sản, rừng, nguồn nước,... chưa phù hợp với kinh tế thị trường, hiệu quả chưa cao.
Tài nguyên chưa được quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững, một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt.
Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về ô nhiễm môi trường do chiến tranh để lại còn nhiều khó khăn; đa dạng sinh học suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng.
Việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; tình trạng ngập lụt ở một số thành phố lớn chậm được khắc phục; sạt lở ven biển, ven sông và xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp...
2. Về phương hướng, nhiệm vụ
Về tư tưởng chỉ đạo
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khoá XI "Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường" xác định năm quan điểm chỉ đạo. Nghị quyết nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường đối với sự phát triển bền vững đất nước và trách nhiệm của Đảng, của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội; xác định những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết các vấn đề biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; tư tưởng chỉ đạo đối với ứng phó với biến đổi khí hậu, với quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên, với bảo vệ môi trường.
Lựa chọn, khái quát các quan điểm, chủ trương của Nghị quyết Trung ương 7 khoá XI phù hợp với hoàn cảnh 5 năm tới, Dự thảo văn kiện xác định:
Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn.
Tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường; đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, các lực lượng vũ trang, phát huy vai trò của cộng đồng, của doanh nghiệp.
Tài nguyên là tài sản quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, phải được đánh giá đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; chú trọng sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, vật liệu mới.
Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân; ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do chủ quan con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra; hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị; thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản; bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường tự nhiên với môi trường sống ở các khu công nghiệp, đô thị, dân cư.
Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bảo vệ tài nguyên; tăng cường phổ biến pháp luật và tuyên truyền trong xã hội về bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên và ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu; tích cực hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Về nhiệm vụ, giải pháp
Dự thảo văn kiện xác định mục tiêu: Đến năm 2020, có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững, kiềm chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; về cơ bản, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải khí nhà kính.
Dự thảo văn kiện xác định các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:
- Nhiệm vụ, giải pháp về quản lý tài nguyên:
Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, thực trạng và xu hướng diễn biến của các nguồn tài nguyên quốc gia, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên biển.
Từng bước xác định, đánh giá các giá trị, thiết lập tài khoản, hạch toán trong nền kinh tế đối với các loại tài nguyên quốc gia.
Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia.
Hạn chế tối đa, từng bước tiến tới chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ qua chế biến sơ, thúc đẩy chế biến sâu; đối với loại khoáng sản chiến lược đặc thù như than, dầu khí,... cần có chính sách cụ thể, cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu.
Đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai; thúc đẩy sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả; kết hợp bảo vệ diện tích, độ phì nhiêu của đất canh tác nông nghiệp.
Quy hoạch khai thác, bảo vệ nguồn nước, tăng cường quản lý nguồn nước theo lưu vực sông; chủ động hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ nguồn nước xuyên quốc gia.
Kiểm soát các hoạt động khai thác; đấu tranh, ngăn chặn tình trạng đánh bắt mang tính hủy diệt nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là vùng gần bờ.
Thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền thống.
- Nhiệm vụ, giải pháp về bảo vệ môi trường:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường; tăng cường phòng ngừa và kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm môi trường.
Ngăn chặn và từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp của môi trường tự nhiên; hạn chế tiến tới khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, khu đô thị, làng nghề, các lưu vực sông, không để phát sinh thêm những cơ sở gây ô nhiễm môi trường; tập trung xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Kiểm soát chất lượng không khí ở khu vực đô thị có mật độ dân cư cao; thực hiện quy chuẩn, tiêu chuẩn phát thải và công nghệ theo lộ trình phù hợp.
Tăng cường bảo vệ và phát triển rừng, nhất là rừng phòng hộ ven biển, rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng.
Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Đẩy mạnh xã hội hoá cùng với việc bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước đầu tư cho các công trình trọng điểm phục hồi môi trường dân sinh.
- Nhiệm vụ, giải pháp về phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu:
Chủ động xây dựng, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai cho từng giai đoạn.
Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu và tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ.
Đầu tư thích đáng cho các công trình trọng điểm quốc gia, các chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng đối với vùng ven biển, nhất là vùng đồng bằng Sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng, duyên hải miền Trung, trước hết là khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau và các thành phố ven biển khác.
Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm mức phát thải khí nhà kính.
(còn tiếp)