Giảm lồng bè nuôi trồng thủy sản để bảo vệ môi trường đảo Cát Bà
Hiện nay, việc nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên các lồng, bè tại khu vực quần đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, TP Hải Phòng đang ảnh hưởng đến môi trường biển. Tình trạng ô nhiễm môi trường biển do NTTS đặt ra yêu cầu phải quy hoạch lại mạng lưới NTTS, mật độ các lồng, bè khu vực quanh đảo Cát Bà để bảo vệ môi trường biển tránh các tác động tiêu cực.
Theo ông Đặng Đình Hỏa, Giám đốc Ban quản lý các vịnh thuộc quần đảo Cát Bà, trên các vịnh Cát Bà hiện còn 486 bè nuôi, với hơn 8.600 ô lồng và 463 giàn bè. Vịnh Bến Bèo là khu vực còn số lượng bè NTTS nhiều nhất với hơn 300 bè, tương đương hơn 5.680 ô lồng. Số lượng còn lại phân bổ tại vịnh Lan Hạ, cảng Cát Bà, vịnh Gia Luận, vịnh Trà Báu.
Trong đó, 143 chủ bè là người Cát Hải, 267 chủ bè là người địa phương khác thuộc Hải Phòng và 76 chủ bè ở tỉnh khác. Mức độ bè nuôi như hiện nay là quá dày và nguy cơ chất thải từ nuôi trồng gây ô nhiễm nguồn nước vịnh.
Từ năm 2005 đến nay, Trung tâm quan trắc môi trường biển, Viện Nghiên cứu Hải sản (Bộ NN&PTNT) phối hợp với Trung tâm quan trắc môi trường TP Hải Phòng thực hiện quan trắc, giám sát chất lượng nước biển tại 13 điểm quan trắc trên địa bàn huyện Cát Hải.
Giảm số lồng bè nuôi trồng thủy sản để bảo vệ môi trường. |
Kết quả cho thấy, môi trường vùng biển ven bờ đang trong tình trạng ô nhiễm, nhiều khu vực có nguy cơ ô nhiễm đáng báo động. Tại Vịnh Lan Hạ, nồng độ oxy hòa tan trong nước ở một số điểm giảm thấp dưới ngưỡng giới hạn cho phép.
Trong khi đó, nồng độ dinh dưỡng, dầu mỡ lại cao hơn giới hạn cho phép và có xu hướng gia tăng nhanh chóng. Chỉ số đa dạng loài thực vật phù du thấp phản ánh môi trường nước bị ô nhiễm. Loài tảo độc hại có khả năng sinh độc tố ASP xuất hiện mật độ cao.
Tại khu vực NTTS bằng lồng bè, môi trường nước đang bị ô nhiễm thể hiện qua nồng độ chất ô nhiễm có xu hướng ngày càng tăng tại những “điểm nóng” ở vịnh Bến Bèo như: Hang Vẹm, Vụng O, ở vịnh Lan Hạ như Tai Kéo, Cạp Gù. Những khu vực trên liên tiếp xảy ra hiện tượng thủy triều đỏ và dịch bệnh hải sản gây thiệt hại cho các hộ chăn nuôi.
Mặc dù nhiều hộ NTTS đã dùng biện pháp khử trùng định kỳ bằng hóa chất nhưng việc “lấy cá nuôi cá” (xay cá nhỏ làm thức ăn cho cá lớn) là nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm nguồn nước bởi phần thức ăn thừa lắng đọng, tích tụ dưới đáy biển. Hơn nữa, chất thải sinh hoạt không được xử lý, xả trực tiếp xuống vịnh cũng làm gia tăng ô nhiễm nguồn nước.
Trước tình trạng báo động về ô nhiễm môi trường do việc NTTS tự phát, không theo quy hoạch, UBND huyện Cát Hải xây dựng kế hoạch điều tiết số lượng bè NTTS. Đến năm 2020, số lượng ô lồng NTTS tại các vụng, vịnh còn 152 bè/2.431 ô lồng, 80 giàn bè nuôi nhuyễn thể, 18 bè dịch vụ.
Trước mắt, năm 2016 đơn vị sẽ thực hiện cắt giảm 30 lồng bè, năm 2017 cắt giảm 120 bè, năm 2018 cắt giảm 120 bè, năm 2019 cắt giảm 64 bè. Về giàn bè nuôi nhuyễn thể, năm 2017, UBND huyện Cát Hải giữ nguyên số lượng đồng thời yêu cầu các hộ phải thay thế giàn tre, phao xốp bằng phao phuy, khung gỗ đảm bảo cảnh quan, vệ sinh môi trường và sắp xếp đúng vị trí quy hoạch.
Theo các cơ quan quản lý, việc NTTS phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định để bảo vệ môi trường. Các đối tượng thuộc diện được quy hoạch phát triển NTTS phải có cơ sở hạ tầng tốt, đủ tiềm lực kinh tế đầu tư theo quy hoạch, có giấy chứng nhận NTTS được UBND huyện Cát Hải cấp hoặc giấy xác nhận nuôi trồng thủy sản của địa phương trước năm 2010, chủ bè chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường…
Với chính sách mới sắp được triển khai, các nhà bè rất lo lắng về việc làm và tài sản mà họ đã đầu tư. Bởi, để có được hệ thống các lồng bè, các chủ bè phải tìm mọi cách đầu tư như: vay vốn ngân hàng, chi trả tiền giống, tiền thức ăn, tiền vệ sinh môi trường trong khi tỷ lệ rủi ro khá cao. Nếu cắt giảm số lượng lồng bè, những chủ hộ NTTS sẽ bị thiệt hại về kinh tế. Vấn đề duy trì cuộc sống của họ cũng là một vấn đề cần giải quyết.
Trước những ý kiến từ phía người dân, theo ông Phạm Quang Hiển, Chủ tịch UBND huyện Cát Hải: Việc cải thiện môi trường vịnh là một trong ba định hướng hành động năm 2016 tại huyện Cát Hải. Trong đó, hoạt động quy hoạch, sắp xếp các bè NTTS là nhiệm vụ trọng tâm.
Khi thực hiện kế hoạch này, UBND huyện Cát Hải sẽ đối thoại và giải quyết quyền lợi của người NTTS, đảm bảo cho người dân không bị thiệt khi cắt giảm số lồng, bè.
Theo đó, các lồng bè phải cắt giảm sẽ được đền bù, hỗ trợ vật, kiến trúc theo quy định pháp luật. Quy hoạch mạng lưới NTTS trong các vịnh tại đảo Cát Bà, trong đó thực hiện mô hình mẫu nhà bè để xây dựng khu NTTS thành điểm đến tham quan du lịch của du khách là việc làm cần thiết.