Vì sao người Việt thành tích thi cử cao nhưng năng suất lao động lại thấp?
- Bệnh hình thức, bệnh thành tích trong giáo dục ngày càng trầm trọng1
- “Bệnh thành tích” gây khó khăn cho đổi mới giáo dục phổ thông
- “Lạm phát” học sinh giỏi, hậu quả của bệnh thành tích
Nếu xét về năng lực và thành tích của học sinh, Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá cao “ngang ngửa” với các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, về năng suất lao động, Việt Nam lại nằm trong top các quốc gia có năng suất lao động thấp nhất khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, thậm chí thấp hơn rất nhiều lần nếu so với các quốc gia trong khu vực ASEAN. Đây thực sự là một nghịch lý đáng lo ngại. Vì sao vậy?
Theo kết quả đánh giá học sinh quốc tế (PISA) 2012 của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) khảo sát tại 65 quốc gia và vùng lãnh thổ nhằm tìm kiếm các chỉ số đánh giá tính hiệu quả - chất lượng của hệ thống giáo dục của mỗi nước tham gia, qua đó rút ra các bài học về chính sách đối với giáo dục phổ thông, công bố định kỳ 3 năm một lần, học sinh Việt Nam đã bất ngờ vượt qua cả các quốc gia phát triển và có nền giáo dục tiên tiến.
Trong đó, học sinh Việt Nam đứng thứ 8 về Khoa học, thứ 17 về môn Toán và thứ 19 về môn Đọc hiểu. Bên cạnh đó, tại các cuộc thi Olimpic quốc tế những năm gần đây học sinh phổ thông Việt Nam luôn xếp thứ hạng cao, “ngang ngửa” với các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, trái với những kết quả nổi bật về thành tích trong học tập, năng suất lao động của Việt Nam lại thuộc nhóm thấp so với khu vực và thế giới. Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) công bố năm 2014, năng suất lao động của người Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất Châu Á - Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và Hàn Quốc 10 lần.
Người lao động “hổng” nhiều kỹ năng do giáo dục Việt Nam đang tồn tại nhiều vấn đề. |
Đặc biệt, so với các nước láng giềng ASEAN, năng suất lao động của Việt Nam cũng chỉ bằng 1/5 Malaysia và 2/5 so với Thái Lan. Bà Victoria Kwakwa-Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cho rằng: Việt Nam đang gặp thách thức rất lớn về năng suất lao động. Mấy năm gần đây Việt Nam đã phục hồi tăng trưởng khá tốt sau giai đoạn suy thoái toàn cầu. Tuy nhiên, xu thế mức tăng năng suất lao động giảm dần đang là vấn đề đáng quan ngại. “Mức tăng năng suất lao động của Việt Nam chưa đến 4% và đang có xu hướng giảm, trong khi mức tăng năng suất lao động tại Trung Quốc là 7%, tại Hàn Quốc là 5% vào thời điểm các nước đó ở cùng trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay”, bà Victoria chia sẻ.
Cũng theo bà Victoria, báo cáo nguồn nhân lực của WB cho thấy, trên thế giới, mô hình phát triển nguồn vốn con người đã chuyển từ tăng cường cơ hội sang nâng cao chất lượng và từ dạy nghề phù hợp sang đào tạo kỹ năng linh hoạt.
Chính phủ Việt Nam cũng đã nhận thức được mức độ cần thiết phải đổi mới hệ thống giáo dục theo mô hình này, và Nghị quyết 29 đã bao hàm nội dung đó. Việt Nam đã xác định được cần phải thực hiện chương trình giáo dục nhằm đào tạo các kỹ năng cơ bản. Nhưng công tác chuẩn bị cho sinh viên và học sinh sẵn sàng đảm đương được công việc trả lương cao hơn, với năng suất lao động cao hơn trên thực tế vẫn chưa đạt yêu cầu.
Trong đó, rất nhiều kỹ năng cơ bản mà sinh viên Việt Nam khi tốt nghiệp ra trường bị cho là đang thiếu hụt. Điều này có nguyên nhân từ việc giáo dục Việt Nam đang tồn tại nhiều vấn đề “không khớp” mà biểu hiện dễ nhận thấy là các cấp giáo dục không khớp nhau. Ngành đào tạo không khớp với nhu cầu thị trường lao động. Phương pháp sư phạm không khớp với thực tế làm việc khi mà các khóa học chú trọng quá nhiều vào lý thuyết, ít chú ý tới thực hành; Giáo trình, tài liệu, phương pháp giảng dạy lỗi thời. Các cơ sở giáo dục và đào tạo không khớp với doanh nghiệp. Hệ thống thông tin thị trường lao động không khớp với nhu cầu của doanh nghiệp, sinh viên và cơ sở đào tạo. Công tác nghiên cứu của các trường đại học và viện nghiên cứu cũng không khớp với đòi hỏi của nền kinh tế. Các trường đại học hiếm khi tham gia vào tiếp nhận công nghệ hay nâng cấp doanh nghiệp. Các chương trình nghiên cứu cũng không quan tâm đến các vấn đề ưu tiên tại địa phương. Và vấn đề quan trọng nhất là nghiên cứu được thực hiện tách rời với giảng dạy nên sinh viên không được làm quen với quy trình đổi mới sáng tạo hoặc với những thay đổi công nghệ mới nhất.
Cũng theo báo cáo của WB, bên cạnh sự không khớp trong đào tạo và thực tế thì sự phân công trách nhiệm giữa các cơ quan Chính phủ không còn phù hợp với hoàn cảnh và mục tiêu phát triển nguồn vốn con người khi mà các bộ chủ quản trong lĩnh vực này đang tranh giành nguồn vốn hạn hẹp thay vì theo đuổi một chương trình nghị sự chung. Chính quyền Trung ương, tỉnh, huyện quản lý và kiểm soát chồng chéo và cạnh tranh với nhau để có được nguồn lực dành cho giáo dục. Các cơ sở giáo dục và đào tạo thì thiếu linh hoạt và nhanh nhạy khi số học sinh theo học thấp, điều kiện dạy lạc hậu, cách ly với doanh nghiệp, phương pháp dạy không phù hợp, sinh viên tốt nghiệp khó có việc làm nhưng các trường dạy nghề và đại học vẫn không chịu sức ép phải thay đổi.
Từ thực trạng trên, WB đã đưa ra đề xuất các khuyến nghị cho kế hoạch phát triển nguồn nhân lực tại Việt Nam 5 năm sắp tới, giai đoạn 2016 -2020.
Theo đó, chương trình giáo dục đảm bảo mọi học sinh Việt Nam đều nắm được những kỹ năng cơ bản và nâng cao thông qua các chương trình giáo dục ngay từ nhỏ, thực hiện cải cách giáo dục phổ thông; buộc các cơ sở đào tạo phải chịu trách nhiệm đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp thông qua hệ thống cơ chế điều chỉnh chương trình đào tạo phù hợp với thị trường lao động, gắn công tác nghiên cứu với giảng dạy, ưu tiên tại địa phương và phù hợp với quy chuẩn quốc tế.