Bí ẩn tượng chùa Bộc: Quang Trung hay Đức Ông?
Ngày nay ai cũng đương nhiên nói rằng chùa Bộc (Hà Nội) là ngôi chùa đặc biệt - nơi có tạc tượng thờ Hoàng đế Quang Trung. Chỉ cần google từ khóa “tượng Quang Trung ở chùa Bộc”, ta sẽ thấy hàng loạt bài viết về bức tượng này, mà nguồn thông tin chủ yếu là lấy từ Wikipedia.
Đại khái nội dung viết khẳng định như một niềm tin mạnh mẽ rằng: “Bất chấp sự cấm đoán, truy lùng ráo riết để giết hại, bỏ tù bất cứ ai liên quan tới nhà Tây Sơn của Vua Gia Long triều Nguyễn, tại chùa Bộc, nhân dân vẫn bí mật thờ tượng vua Quang Trung dưới hình thức Đức Ông”.
Đây là một tri thức được hình thành trong quá trình sáng tạo truyền thống ở giữa thế kỷ XX, và cho đến nay, tri thức ấy đã thành chân lý không còn gì để đáng phải bàn cãi. Vậy thực hư của câu chuyện này là thế nào?

Quá trình phát hiện “bức tượng lạ”
Nguyên ủy, hè năm 1959, cán bộ Vụ Bảo tồn Bảo tàng phát hiện một văn bia khắc năm Quang Trung 4 (1792) tại chùa Bộc. Năm 1960, cán bộ Sở Văn hóa Hà Nội phát hiện hoành phi “Uy phong lẫm liệt”, và đôi câu đối có bốn chữ “quang trung hóa Phật” và bức tượng khác thường – có một chân trần, mặc áo hoàng bào, lưng thắt đại ngọc, đội mũ xung thiên. Các cụ địa phương kể rằng, bức tượng này thờ một “Đức ông từ Thanh Hóa ra đánh tan quân Thanh”. Ngày 20/4/1962, cuộc họp giữa dân làng và cán bộ văn hóa đi đến kết luận rằng: đây chính là “tượng vị anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ”. Ngày 22/4/1962, cán bộ Trần Huy Bá được sư chùa chỉ cho sáu chữ “Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng” khắc phía sau bệ gỗ đặt tượng. Ngày 4/5/1962, Báo Thủ đô Hà Nội còn xác định thêm tượng mặt trắng ngồi dưới là Ngô Thời Nhiệm và vị mặt đỏ là Ngô Văn Sở. Báo Thời mới và Nghiên cứu lịch sử (số 38) cũng đưa tin việc phát hiện pho tượng Quang Trung - người đã đại phá 20 vạn quân Thanh. Nhà sử học Văn Tân công bố bài “Về pho tượng Quang Trung tìm thấy ở chùa Bộc” (trang 26-32) trên số 39 của tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. Đây là một bài nghiên cứu chính thức của sử gia hàng đầu công bố trên tạp chí chuyên ngành. Bài viết này ngay khi ra đời đã có ảnh hưởng quan trọng đối với xã hội trong suốt mấy chục năm qua.
Văn Tân khẳng định rằng: Bức tượng đức ông tạc năm 1846 là việc tôn sùng và ca ngợi công đức vua Quang Trung Nguyễn Huệ - vị anh hùng dân tộc (tr.30), những người tạc tượng đã sử dụng “một chiêu bài mượn Phật ngữ để che mắt bọn quan lại nhà Nguyễn”, ông kết luận: nhân dân làng Khương Thượng thể hiện sự nhớ tiếc triều đại Tây Sơn vì Tây Sơn đã có công giải phóng dân làng khỏi quân Thanh, nên họ thấy cần phải biểu thị sự kính ngưỡng đối với triều đại Tây Sơn và gián tiếp để cho mọi người thấy sự thối tha của triều Nguyễn (tr.31-32).
Để đưa ra kết luận trên, ông đã biện luận ba cứ liệu đã phát hiện. Thứ nhất, câu đối: “động lý vô trần đại địa sơn hà lưu đống vũ; Quang Trung hóa Phật, tiểu thiên thế giới chuyển phong vân”, được đặt thờ hai bên tượng được Trần Huy Bá dịch như sau: “trong động này, không còn mảy may bụi nhơ nào, chỉ chốn non sông đất rộng lớn này còn để lại tòa lâu đài rường cột làm dấu vết; Khi vua Quang Trung đã hóa thành Phật, thì thế giới cõi tiểu thiên gió mây đều cảm động mà chuyển vần”, và được cụ Lê Thước dịch là “sau phá thành quét sạch bụi bậm (quân xâm lăng) trên dải đất núi sông rộng lớn, còn lưu lại ngôi chùa cao rộng; Vua Quang Trung hóa hằng hà sa số (đột nhiên tung ức vạn binh lính) đánh một trận phong vân (một thế trận trong bát trận đồ của Gia Cát Lượng) làm chuyển động cõi trần”.
Văn Tân, sau khi tóm tắt việc quân Thanh tàn sát nhân dân và quá trình vua Quang Trung đánh quân Thanh đã nhận xét: “Mới đọc, có thể tưởng đôi câu đối chỉ nói một vị bồ tát, nhưng suy nghĩ một chút thì thấy đôi câu đối ấy đã ca tụng sự nghiệp của Vua Quang Trung”. Chữ Quang Trung vừa là tên một vị Phật, để tránh việc tai vạ xảy ra (do chính sách tiêu diệt của triều Nguyễn đối với tàn dư Tây Sơn).
Và thứ hai, bức hoành phi “Uy phong lẫm liệt” không phải chữ nhà Phật, mà chỉ thích hợp với sự nghiệp của vị anh hùng. Cho nên, câu đối thứ hai mới ca ngợi: ngài có công “ngang trời dọc đất, giúp nước giữ dân”, công đức của Phật chỉ là từ bi bác ái chứ không thể “kinh thiên vĩ địa” được. Cuối cùng, sáu chữ “Bính ngọ tạo Quang Trung tượng” đã phải khắc kín ở phía sau để tránh bị trừng phạt. Dân làng Khương Thượng tạc tượng Quang Trung trong Chùa Bộc còn là để đối chọi lại với miếu thờ tướng sĩ quân Thanh ở khu Đống Đa. Quá trình sùng kính ấy thể hiện theo thời gian: năm 1835 khắc câu đối “Quang Trung hóa Phật”, năm 1846 tạc tượng Quang Trung, và phải khắc giấu sáu chữ ở trên bệ, với hy vọng một ngày nào đó, nhân dân sẽ giải mã được “bí ẩn Phật ngữ” đằng sau tượng đức ông”. Sau bài viết của Văn Tân, chùa Bộc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia ngay trong năm 1962.
Những phản biện bị lãng quên
Kể từ sau năm 1962, tượng Quang Trung ở chùa Bộc đã trở thành sử thực, được nhà chùa, nhân dân địa phương, và sách báo nhà nước ghi nhận, sử thực này đã tồn tại cho đến tận ngày nay. Và hầu như không mấy ai biết đến việc năm 1990, Nguyễn Duy Hinh (GS) đã công bố bài “Về một pho tượng chùa Bộc” (Nghiên cứu lịch sử, số 250, tr.38-44). GS. Hinh ngay từ năm 1962 đã quan sát và tò mò với sự kiện phát hiện tượng Quang Trung tại chùa Bộc. Và từ đó, ông đã dùng 30 năm để đi điền dã tất cả các tượng Đức Ông tại 65 chùa ở Hà Nội, như chùa Láng, Trấn Quốc, Bụt Mọc, Xã Đàn, Nam Đồng... Ông phản biện rằng, việc diễn giải tượng Đức Ông thành tượng Quang Trung là không đủ căn cứ.
Thứ nhất, các chùa đều có tạc tượng Đức Ông với triều phục, trang trí rồng, lân, giáp trụ,... không khác gì tượng chùa Bộc, đôi khi có chùa còn đặt cả trên ngai, và cũng có tượng để một chân ngoài hia như chùa Xiền Pháp, chùa Lý Quốc Sư, Trích Sài. Việc tượng Đức Ông để một chân trần không phải là chuyện của riêng chùa Bộc. Trong Phật điện của chùa Việt, Đức Ông là người trông coi tài sản, khí vật trong chùa. Ông cũng đưa giả thuyết khác, bộ ba tượng đó có thể là Thổ Địa.
Về hoành phi, GS Nguyễn Duy Hinh phản biện như sau. Bức “Uy phong lẫm liệt” không chỉ có ở chùa Bộc, mà còn có ở một số chùa khác. Chùa Viên Minh có bức này và bức “Duệ khí hiên ngang” đặt ở trên đầu tượng hộ pháp, chùa Cự Châu là “Uy cự trắc”, chùa Trấn Quốc là “Hiển thân uy”... ông khẳng định: “không thể kể xiết những câu hoành trên tượng Đức Ông mang ý uy vũ mà lúc nào ta cũng có thể gán ghép cho Quang Trung”, (tr.42).
Để phản biện lại cụm “Quang Trung hóa Phật” trong đôi câu đối, ông đã dẫn các chữ “quang trung” cũng xuất hiện ở câu: “Bảo giác quang trung hàm thập hư nhi đãng đãng” tại chùa Trấn Quốc, “bạch ngọc quang trung, đãng đãng lục thông Viên Giác phụ; Hoàng kim điện thượng nguy nguy vạn đức Đại Hùng sư” chùa Bát Mẫu. Những câu đối đi kèm cũng mô tả uy dũng của Đức Ông, ví dụ như: “Tự tả xuất thần uy kinh thiên vĩ địa; Phật tiên thí diệu công hộ quốc bảo dân”. Ông xác định các câu đối này mang nội dung nhà Phật, và do những người trong thế kỷ XX soạn, chữ “quang trung” đều với nghĩa là chỉ ánh sáng Phật pháp, chứ không có ý nào ám chỉ đến vua Quang Trung cả.
Quay trở lại với dòng chữ “Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng”, ông cho biết: dòng này được viết ra bởi một người chỉ biết chút ít về chữ Hán. Thứ nhất, chữ khắc theo dòng ngang (không theo dòng dọc) từ trái sang phải (chứ không từ phải sang trái). Đây là kiểu khắc của người quen với chữ Quốc ngữ. Thứ hai, câu văn ngô nghê không đúng văn pháp Hán văn. Sau năm can chi không có chữ niên, lại gọi hiệu vị vua một cách trần trụi, và cũng không có đế hiệu. Đây là tri thức tối thiểu của nhà Nho. Thứ nữa, chữ khắc phía sau bệ cũng không có gì gọi là bí mật cả, nhất là so với kĩ thuật yểm tâm của tượng pháp truyền thống. Ông cho rằng, các chữ này khắc thô vụng, lộ liễu. “Nét khắc nham nhở, thô kệch chứng tỏ tay nghề kém, dao cùn, và khá nguệch ngoạc vội vàng”.
Sau bài của Nguyễn Duy Hinh, số 254 Nghiên cứu Lịch sử đã đăng bài của ông Trần Đắc Thọ. Ông phản biện lại GS Hinh, với cứ liệu văn bia. Bia chùa dựng năm 1792 nói về việc xây chùa (trước thời điểm vua Quang Trung mất 6 tháng). Mà đã có chùa thì phải có tượng, suy ra, bộ tượng trên đã có mặt ở chùa từ năm 1792. Câu đối “Quang Trung hóa Phật” là chơi chữ nước đôi, vừa là “trong ánh sáng Phật pháp,” lại vừa ám chỉ vua Quang Trung. Ông kết luận rằng: bộ tượng đã được làm khi vua Quang Trung còn đang ở ngôi và uy tín nhà vua đang ở đỉnh cao nhất. Việc tạc tượng ông ngay khi còn sống, ngay tại trận địa nơi diễn ra trận đánh lịch sử là điều rất hợp lý. Quay trở lại với dòng niên đại, ông Thọ đồng ý với GS Hinh rằng dòng niên đại kia rõ là việc ngụy tạo, gây nhiễu, làm mất bao nhiêu bút mực của các nhà nghiên cứu. Ông cho biết thêm: năm 1961, có cơ quan muốn xin đất quanh chùa Bộc để làm cơ sở, vì sợ mất đất nên người ta đã tung tin pho tượng Đức Ông chính là tượng của vua Quang Trung. Khi cán bộ xuống kiểm tra, để thêm chứng cứ thuyết học, người ta đã có khắc thêm dòng lạc khoản này. (tr.70) Cho nên, nếu ta trách nhà sư chùa Bộc đã bị động trong việc cho khắc mấy chữ này vào sau tượng thì công bằng mà nói, ta cũng phải thấy nhà sư đó đã có công trong việc tiết lộ bí mật của pho tượng.
Trên đây là những tường thuật về cuộc tranh cãi học thuật xung quanh câu chuyện tượng “Quang Trung hóa Phật”. Còn đúng sai cuối cùng như thế nào, xin nhường các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm.