Đại tá Bồ Xuân Hân: Nhọc nhằn đời quản giáo
Giờ đây, sau 40 năm gắn bó với nghề quản lý, giam giữ và cải tạo phạm nhân, theo quy luật của cuộc đời, ông hạ cánh nhẹ nhàng trên khuôn viên căn nhà của mình với niềm ao ước: Thế hệ tiếp nối ông sẽ tiếp tục viết nên những trang sử oai hùng ở một đơn vị anh hùng, nơi ông đã có 16 năm làm giám thị. Ông là Đại tá Bồ Xuân Hân, người đã đặt cả cuộc đời nơi đất trại.
Em ở đầu sông, anh cuối sông!
Ở ngành nào thì không rõ, chứ ở ngành Cảnh sát trại giam, vợ một nơi, chồng một nẻo xem ra cũng bình thường. Người ta yêu nhau, lấy nhau rồi chấp nhận xa nhau để đến những miền quê khác nhau nhận nhiệm vụ mới âu cũng là chuyện thường tình. Với vợ chồng Đại tá Bồ Xuân Hân, không thoát ly khỏi quy luật ấy.
Nếu như cuộc đời ông gắn liền với đất trại thì vợ và con ông cũng thế. Nếu như 40 năm công tác trong ngành Cảnh sát trại giam ông phải luân chuyển đến 11 trại cải tạo khác nhau thì vợ ông, bà Nguyễn Thị Dung cũng phải luân chuyển công tác đến 5 trại. Giờ đây, được ngành cho nghỉ công tác là thời khắc để ông nhìn lại những trang đời đã qua. Trong lần gặp gỡ mới đây với chúng tôi, ông bảo rằng trong 40 năm cống hiến sức lực và trí tuệ cho ngành, thì đời ông có tới 30 năm phải sống xa vợ con, chấp nhận cuộc sống "ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân".
Có thời điểm 2 hoặc 3 năm ông mới được nghỉ phép về thăm nhà. Thời kỳ cả nước còn chiến tranh, chồng công tác ở một trại, vợ làm việc ở một trại khác, cuộc sống cứ đong đưa với chuỗi ngày xa cách "anh ở đầu sông, em cuối sông": Đất trại ngày ấy đâu có như bây giờ, khó khăn chất chồng, đồi núi thường là nơi đặt các trại cải tạo giam giữ phạm nhân.
Và để cho các phạm nhân cải ác, thán phục cái thiện, nhiệm vụ của người quản giáo không có gì khác hơn là hàng ngày phải bằng những việc làm của mình để cảm hoá và thu phục họ, một việc làm không đơn giản chút nào.
Đại tá Bồ Xuân Hân hồi tưởng: "Giữa năm 1964, tôi được tuyển vào ngành thì được phân làm cán bộ quản giáo ở Trại cải tạo Thanh Lãng, tỉnh Phú Thọ. Ít lâu sau cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lan rộng ra các tỉnh phía Bắc, thời điểm ấy cũng như các cơ quan trường học, trại cũng phải vào cuộc hành quân, sơ tán tài sản, hồ sơ và phạm nhân.”.
Có lúc vừa xây dựng xong trại, địch đánh phá lại phải dời địa điểm đi nơi khác. Rồi ông lấy vợ, vợ ông cũng là một cán bộ sống trên đất trại. Tưởng đất trại sẽ là nơi gieo mầm hạnh phúc cho cuộc đời sau những ngày làm việc căng thẳng, nào ngờ công việc của người cán bộ quản giáo đã khiến vợ chồng họ phải xa nhau biền biệt.
Chiến tranh kết thúc, từ Trại giam số 1 ở Lào Cai, ông được điều về công tác tại Trại giam Chí Hòa (TP HCM), tiếp đó là trại cải tạo Long Thành (Đồng Nai). Còn vợ ông được điều về trại Văn Hoà (Hà Nội), ít lâu sau là trại Nam Hà. Di chuyển liên tục, trại chưa có trường học và ở xa TP nên những đứa con của họ thì gửi về quê nội, đứa thì gửi về quê ngoại nhờ ông bà nuôi ăn học. Đến khi gia đình được đoàn tụ thì cả chồng và vợ đều đã ở nửa bên kia cuộc đời.
Vui-buồn nghề quản giáo
Với Đại tá Bồ Xuân Hân, 40 năm gắn bó với đất trại, 40 năm trong nghề quản giáo là những chuỗi ngày gắn liền với bao kỷ niệm buồn vui. Tiếp xúc với chúng tôi ở trại cải tạo Thanh Xuân, nơi ông đã có 16 năm làm giám thị, ông bảo rằng: "Thời bao cấp, đời sống cán bộ chiến sỹ Công an công tác ở trại giam được điều tiết bởi chế độ tem phiếu, theo đó mỗi cán bộ chiến sỹ mỗi tháng được mấy lạng thịt, vài bìa đậu, cân đường. Đã vậy, các trại cải tạo đa phần ở khu vực núi đèo, xa thành phố và đường đi lối lại khó khăn.”
Đó là chưa kể đến những thiếu thốn về đời sống tinh thần. Ở xứ heo hút mây vờn ấy, đời sống cán bộ trại còn như vậy thì huống chi là phạm nhân. Nhưng rồi tất cả đều vượt qua bởi bàn tay, khối óc con người. Không cam chịu và đầu hàng trước hoàn cảnh, ngoài những công việc hàng ngày là giáo dục cảm hoá phạm nhân qua giờ giảng giải các kiến thức về pháp luật, chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước, tuyên truyền các tri thức về văn hoá... là những chương trình xẻ núi ngăn sông "vắt đất thành cơm".
Ai có nghĩ rằng chính các công việc ấy là một nguồn sống quan trọng để trại có thêm nguồn thu đưa vào bữa ăn, mua thêm sách báo và làm đổi thay cảnh quan môi trường các trại cải tạo.

Đại tá Bồ Xuân Hân kể rằng, hồi ấy đang làm quản giáo ở Trại Lào Cai, một lần ông dẫn các phạm nhân đi chặt nứa để về xây dựng trại thì có một phạm nhân quê ở Hà Nam, trước khi bị bắt, kết án và đưa đến trại thụ án, anh ta đã có nhiều tiền án, tiền sự về tội trộm cắp tài sản Nhà nước và tài sản công dân.
Vào trại, tính nào tật ấy, anh ta không những lười lao động mà còn có biểu hiện chống đối cán bộ quản giáo. Sáng hôm đó, như thường lệ, trong lúc các phạm nhân khác đang cần mẫn làm việc, anh ta lại lẩn trốn vào một chỗ khuất ngồi chơi. Thấy vậy, ông đến nhắc nhở, gã phạm nhân này còn chửi thề, rồi bất ngờ dùng dao xông vào chém ông với ý định trốn khỏi nơi giam giữ. Nhưng với ý thức cảnh giác, ông đã thoát khỏi đường dao của anh ta, rồi bằng một động tác võ thuật đã quật ngã "đối thủ".
Sau lần ấy, ông tìm biện pháp giáo dục phù hợp. Cuối cùng anh ta nhận ra tội lỗi của mình và phấn đấu cải tạo tốt. Ngày ra trại của anh ta cũng là niềm vui của các cán bộ quản giáo.
Một phạm nhân khác ở ngoài đời là một người hiểu biết. Anh ta bị khởi tố, bắt giam về tội tuyên truyền phản cách mạng. Khi mới vào trại, mỗi lần có cơ hội tiếp xúc với Ban giám thị là một lần anh ta có những lời lẽ phản đối chế độ. Còn trong sinh hoạt thì bê tha, râu tóc bờm xờm đến mức phải dùng đến 12 chiếc cặp để bím lại. Trước một đối tượng như thế, ông đã phải dùng lời lẽ, sự hiểu biết về pháp luật đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước để phân tích cho anh ta hiểu và tự giác chấp hành. Mỗi ngày một lần, dần dà anh ta nhận ra rằng ở trại không phải là ốc đảo. Các phạm nhân sống ở trại chỉ mất đi quyền công dân, họ vẫn còn những quyền cơ bản khác của con người. Đó là quyền lao động, quyền học tập, quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền nâng cao sự hiểu biết...
Thời Đại tá Bồ Xuân Hân làm Giám thị Trại cải tạo Thanh Xuân còn có một nữ phạm nhân trước khi vào trại do những bế tắc trong cuộc sống đã gây tội ác. Khi vào trại, nhiều lần chị ta định tự vẫn. Do tự vẫn không thành nên có lần chị ta ăn cả gan cóc để mong muốn được kết liễu đời mình.
Sau khi nghe cán bộ dưới quyền báo cáo, ông đã gặp gỡ phạm nhân này tìm hiểu, rồi vẫn là những kinh nghiệm của cuộc đời, ông tìm cách giảng giải phân tích và biểu lộ sự cảm thông. Cuối cùng, bằng những việc làm của mình, ông đã làm cho phạm nhân này hiểu: Trại cải tạo thời nay không phải là nhà tù khổ sai của chế độ cũ. Cuối cùng chị ta đã yên tâm cải tạo với lòng mong mỏi sớm được ra trại để hoà nhập cộng đồng.
Để có được danh hiệu đơn vị Anh hùng LLVTND
Những ai đã từng đặt chân đến Trại cải tạo Thanh Xuân đều dễ dàng nhận ra rằng nơi đây "đất chật, tù đông". Lời nhận xét trên quả không sai bởi so với các trại cải tạo khác ở nước ta, đất trại ở đây rất ít. Tuy xếp vào trại cải tạo loại hai, nhưng ở đây có tới 1/4 phạm nhân trong các vụ trọng án, đây là nơi được giao giam giữ, cải tạo một số phạm nhân xếp vào diện VIP. Người ta nói, “đất là nguồn gốc của sự giàu có”, thế mà ở Trại Thanh Xuân lại không có đất để cắm dùi. Toàn bộ diện tích của trại chỉ vỏn vẹn nằm trên thửa đất rộng 1,4ha. Vậy làm thế nào vừa kết hợp giáo dục, cảm hoá phạm nhân bằng chính sách pháp luật của Nhà nước, vừa cải tạo họ qua lao động? Quả là một bài toán mà việc tìm lời giải không dễ chút nào.
Được cấp trên bổ nhiệm làm Giám thị, điều đầu tiên mà Đại tá Bồ Xuân Hân nghĩ đến là phải tự lực, tự cường. Muốn vậy, nội bộ phải đoàn kết và tạo được bầu không khí đồng thuận, dám nghĩ dám làm trong khuôn khổ pháp luật. Có lẽ vì thế mà những năm qua ở đây ngoài giờ lên lớp để tiếp thu kiến thức pháp luật, văn hóa..., các phạm nhân người nào việc nấy. Các công việc họ đảm nhận xem ra đều phù hợp với sức khoẻ, tuổi tác của từng người. Người lớn tuổi thường đảm nhiệm các phần việc chăm sóc cây cảnh, người có nghề làm mộc thì hàng ngày sẻ gỗ, đóng đồ...
Công việc đã tạo cho các phạm nhân niềm vui, tính cộng đồng nhiệm vụ và vơi đi nỗi buồn trong quá khứ. Nhưng điều quan trọng là các sản phẩm do họ làm ra đã trở thành hàng hoá, góp phần làm tăng ngân quỹ của trại. Chính nhờ nguồn tài chính ấy mà bữa ăn hàng ngày được cải thiện. Các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, sân chơi thể thao, đời sống tinh thần từng bước cải thiện.
Đấy cũng là lời giải thích vì sao hàng chục năm nay ở Trại cải tạo Thanh Xuân không có một phạm nhân nào bị suy kiệt, bỏ trốn khỏi nơi giam giữ. Hầu hết họ đều yên tâm cải tạo để mong sớm có ngày đoàn tụ với gia đình. Khách đến thăm dù là các đoàn khách quốc tế hay trong nước đều biểu lộ sự hài lòng về công tác quản lý, cải tạo phạm nhân ở đây: không có nhục hình, không có đánh đập, nhân phẩm con người được tôn trọng và trại không phải là ốc đảo.
Phải bằng những tố chất ấy, đã tạo nên những tiền đề để Nhà nước phong tặng Trại cải tạo Thanh Xuân là đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang. Người đi đầu giành chiến công ấy là Đại tá, Giám thị Bồ Xuân Hân