Nguyễn Ngọc Tư: len lén thơ buồn
- Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: Cái tên bảo chứng cho lượng độc giả
- Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ký tặng sách mới tái bản tại TP.HCM
- Thêm một tác phẩm của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư lên sân khấu
Tôi giật mình, thôi rồi, nữ sĩ Nam bộ này hễ nói được là làm được. Bài thơ đầu tiên mà Nguyễn Ngọc Tư tự hào ấy, được in trên báo Đà Nẵng. Khởi nghiệp thơ trên một tờ báo địa phương ở tuổi ngoài 30 có đáng kỳ vọng không? Không có gì phải băn khoăn, nhà văn Nga - tác giả cuốn "Cánh buồm đỏ thắm" lừng lẫy, cũng từng in truyện ngắn đầu tay trên tờ "Tin chứng khoán" của thành phố Peterburg đấy thôi!
Năm 1998, tôi quen Nguyễn Ngọc Tư khi cô đang làm văn thư cho Hội Văn nghệ Cà Mau, chỉ mới viết được một vài bài ký kể chuyện vùng sông nước. Thế nhưng, sau đó Nguyễn Ngọc Tư có những bước tiến rất dài trong nghề văn, chứng tỏ một tài năng thiên bẩm. Riêng truyện dài "Cánh đồng bất tận" đã giúp Nguyễn Ngọc Tư vượt trội những cây bút cùng thế hệ. Vì vậy, tôi cũng rất cảnh giác với tiềm lực làm thơ của Nguyễn Ngọc Tư!
Năm 2013, Nguyễn Ngọc Tư in tập thơ "Chấm" chỉ mấy chục bài nhưng có độ dày 180 trang, trình bày rất phóng khoáng và hoa mỹ. Khác với các nhà thơ phải tự bỏ tiền để in thơ mình, tập "Chấm" của Nguyễn Ngọc Tư do một công ty sách đầu tư. Chứng tỏ khứu giác từ các nhà kinh doanh "đánh hơi" được thơ Nguyễn Ngọc Tư cũng ăn khách trên thị trường. Nhà thơ in thơ chỉ thấy thua lỗ, còn Nguyễn Ngọc Tư in thơ thì được trả nhuận bút mấy chục triệu đồng.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và bìa tập thơ "Chấm". |
Ưu điểm của thơ luôn nằm ở những khoảnh khắc. Cái khoảnh khắc ấy văn xuôi không thể diễn tả một cách mạch lạc. Thơ Nguyễn Ngọc Tư là dăm khoảnh khắc buồn len lén trình diện một tâm hồn đa cảm. Bài thơ "Thềm nhà" vướng mắc từ sự áy náy "lâu rồi không về ngồi nơi thềm nhà, để nhìn ba má già", cô đắng đót nhận ra:
"Bốn ngàn trưa con nằm co bên thềm như con chó nhỏ
ngủ và mơ giấc của riêng mình,
những chiêm bao bị cơn thèm ăn ngấu vào quay quắt
con chưa bao giờ kể ai nghe
sợ tay má khóc
mãi không búi được tóc
sợ lòng ba đau
miết cuốc vào giồng rau"
Cảm giác trôi từng dòng, từng dòng vừa như nỗi sợ hãi chạm phải ngày xưa cơ cực, mà từng dòng vừa như sự chột dạ không thể níu giữ kỷ niệm mờ phai. Nguyễn Ngọc Tư không dùng một chữ đắc địa nào, nhưng thơ thuyết phục nhờ vẻ yếu mềm phụ nữ không cần giấu giếm.
Tôi mơ hồ nghĩ rằng, khi làm thơ Nguyễn Ngọc Tư không mấy tin vào giá trị của chữ nghĩa, mà cô tin tuyệt đối vào giá trị của nước mắt. Bởi thế, cô có câu "Sao đôi lúc mực rơi như đạn xé?" ẩn chứa sự mạnh mẽ của bao ngậm ngùi!
Một người viết truyện ngắn có văn phong thì khi quyết định làm thơ sẽ có lợi thế ngưng tụ được nhiều hình ảnh. Đó là nguyên nhân Nguyễn Ngọc Tư quan sát được một "Lễ hội" rạng rỡ:
"Những lời hứa không mang theo dấu hỏi
Nhiều mật, hoa và lắm nụ cười
Em cả tin chảy cùng người ngơ ngác
Vắt tim mình pha sắc những cuộc vui".
Đồng thời Nguyễn Ngọc Tư cũng dò tìm được một phương pháp "Hỏi đường" trắc ẩn:
"Những ngày rong ruổi trên đất lạ
chỉ mình tôi một lần ngẩn ngơ hỏi con đường, lối nào sẽ dẫn đến người.
Đường im lặng đi lên đồi mải miết
người ngốc ơi, chỉ cần dừng chân lại, sẽ thấy người".
Khi đọc thơ Nguyễn Ngọc Tư, tôi cố gạt ra quan hệ thân tình để giải đáp câu hỏi có thể nhiều người cũng quan tâm: nhà văn ăn khách làm thơ với mục đích gì? Xin thưa, khi viết văn xuôi, Nguyễn Ngọc Tư mong muốn làm cuộc đối thoại với nhân vật và tình tiết, còn khi sáng tác thơ, Nguyễn Ngọc Tư mới có cơ hội làm cuộc đối thọai với bản thân. Và chính cuộc đối thọai trễ nải vần điệu giúp công chúng hình dung một Nguyễn Ngọc Tư xa thẳm với cô đơn thường trực của kẻ ưu tư:
"Mình tôi mình tôi riêng tôi riêng tôi
Thênh thang lầm lũi…
Thèm cùng người nhìn tách trà thoi thóp khói
nghe chút ngọt mụ mị mềm đầu lưỡi, nơi đắng chát đã từng qua".
Từ xưa đến nay, thơ có một mối nguy hiểm là thể loại văn chương tưởng chừng mơ màng hư thực này luôn bắt người viết phải thổ lộ những riêng tư thầm kín nhất, nếu muốn tìm được đồng cảm phía độc giả. Nguyễn Ngọc Tư tình nguyện làm một người ngây dại để đi tìm run rẩy trái tim mình "Bão đã từng" chới với giữa cuộc sống ngày càng dửng dưng hơn.
"Những nhớ thương, chờ đợi, tủi buồn,
bỗng một ngày em không nhốt được,
tan chảy từ khối ngày đông đặc,
chúng chực tràn ràn rụa phía anh
Từng chữ từng chữ tuôn trên những ngón tay
chữ mặn và trong,
chữ xót ròng ròng
em không sao dừng lại được
anh sẽ ướt
anh sẽ ướt. Em sợ anh sẽ ướt
khoét một vết sâu, em dẫn nhớ chảy vào
mỗi thư nháp là một dấu đau
một vũng chữ anh không bao giờ nhìn thấy
Mỗi thư nháp là một cơn bão
Đã từng…".
Đọc văn xuôi của Nguyễn Ngọc Tư, không khó để nhận ra có nhiều chất thơ. Ngược lại, đọc thơ của Nguyễn Ngọc Tư, cũng không khó để nhận ra có nhiều chất văn xuôi. Trong bài "Ở trọ", Nguyễn Ngọc Tư phát hiện được nhiều chi tiết từ những mảnh đời cơ cực hắt hiu:
"Trẻ con kết thân rất nhanh
Ráo hoảnh bạn bè xóm cũ
Sáng vật tay nhau trưa đã thành chân trời
Dại dột trồng một cây chanh
Thắt thẻo không người tưới
Bông mười giờ nở cút côi
Lỡ tay trồng một bụi hành
Quên không gói ghém
Bữa ăn đầu tiên trong tổ mới nguội tanh
Lục bình vừa trôi vừa tàn
Lá đa vừa rã vừa rơi
Vừa đến họ vừa rời cõi tạm".
Đọc thơ Nguyễn Ngọc Tư, có thể khám phá được những câu chuyện khó nói thành lời mà Nguyễn Ngọc Tư cũng không thể viết thành truyện ngắn hoặc tản văn. Năm 2008, Nguyễn Ngọc Tư được Giải thưởng Văn học ASEAN với tác phẩm "Cánh đồng bất tận". Nguyễn Ngọc Tư sang Thái Lan nhận giải khi đang mang thai đứa con trai thứ hai. Bài thơ "Nhật ký mang thai tháng thứ năm" đã ghi lại chân thực cảm xúc của Nguyễn Ngọc Tư lúc ấy:
Con bỏ lỗi cho mẹ vừa làm lễ trước vua xứ khác
Chỉ mẹ thôi, con chớ có quỳ
Áo mẹ tối màu, làm mắt con u uẩn?
Một chút rượu nhấm môi, con trong ấy nghe cay
Bài ca buồn mẹ để vẳng vào tai
Ấy chết, con đừng sớm thở dài
Mẹ lỡ giẫm gai, con không cần nhói
Hãy cựa quậy
Hãy trở mình
Nhắc nhớ mẹ thở cho hai người
Mẹ nuôi men ủ nụ cười
Và đứng thẳng".
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư lý giải nguyên nhân mình đột ngột lạc bước vào lãnh địa thi ca: "Vào những thời khắc đặc biệt với những tâm trạng đặc biệt, những cảm giác không thể tách bạch, tôi thấy mấy cái khó đỡ này thơ chơi được. Nên độc giả đã từng rất ưng văn xuôi của tôi cũng đừng lo lắng, chơi đâu thì tôi cũng quay về!".
Nói thì nói vậy, nhưng Nguyễn Ngọc Tư đến với thơ không phải một trò chơi giống như câu thơ "một người câu một bóng người sũng nước" mà Nguyễn Ngọc Tư đã viết. Nguyễn Ngọc Tư vừa hoàn thành một bản thảo thơ mới, và dĩ nhiên cũng cũng sẽ được xuất bản với nhuận bút không thua gì một tập văn xuôi.
Mai sau, liệu có một lúc nào đó công chúng sẽ giới thiệu "nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư đã từng viết văn" chăng? Tôi không dám phỏng đoán, nhưng tôi chắc chắn nhiều câu thơ đã an ủi Nguyễn Ngọc Tư những lúc xao xác ngã lòng. Và cũng chắc chắn nhờ có thơ, mọi người sẽ hiểu Nguyễn Ngọc Tư thêm chút nữa!