Ngược dòng Mê Kông đến Tonle Sap
Tôi đặt vé di chuyển sang Campuchia bằng tàu cao tốc, xuất phát từ Châu Đốc, tỉnh An Giang. Chỉ khoảng 2h đồng hồ ngược dòng Cửu Long, sau khi thực hiện các thủ tục xuất nhập cảnh tại cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương (Việt Nam) và Khaam Samnor (Campuchia), tôi đã có mặt tại Thủ đô Pnom Penh. Ăn vội cơm hộp ngay tại bến cao tốc, tôi tiếp tục tìm phương tiện di chuyển về Siem Reap để đến Tonle Sap, cách đó khoảng 350km.
“Tonle Sap” nghĩa là "sông nước ngọt lớn"; còn "Biển Hồ" là cách quen gọi của người Việt. Đấy là một nhánh rẽ rất quan trọng của sông Mê Kông, hệ thống kết hợp giữa hồ và sông, giữ vai trò điều tiết nước, trong đó cung cấp 50% nước cho vùng châu thổ Cửu Long trong mùa khô hàng trăm năm qua. Có chu vi vắt qua 5 tỉnh của Campuchia (Pursat, Battambang, Siem Reap, Kampong Thom, Kampong Chhnang), từ năm 1997, hồ nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á này được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Có nhiều câu chuyện hấp dẫn gắn với Biển Hồ - điểm đến đầu tiên trong hành trình ngược dòng Mê Kông vào đầu tháng 6/2017 của tôi nhưng tôi lại quan tâm nhiều nhất đến câu chuyện cá.
Thực tế ngót 16 năm đứng chân tác nghiệp khu vực cuối dòng Mê Kông – con sông có sản lượng cá đứng thứ hai thế giới (chỉ sau Amazone, với khoảng 1.200 loài), tôi từng nhiều lần chứng kiến loài cá “khủng” có xuất xứ từ Biển Hồ bị xẻ thịt, đưa lên… bàn nhậu. Ngay trước chuyến đi của tôi, một con cá tra dầu (loài khá phổ biến tại Biển Hồ, nằm trong Sách đỏ Việt Nam của IUCN), nặng gần 200kg dính lưới ngư dân, được một nhà hàng ở Đà Nẵng mua với giá gần 400 triệu đồng. Trước đó không lâu, 2 con cá tra dầu (con lớn nặng 247kg) bị ngư dân Campuchia đánh bắt, chuyển sang cũng được các nhà hàng tại An Giang và TP Hồ Chí Minh mua với giá cao ngất ngưởng. Cánh nhà hàng ở TP Hồ Chí Minh còn đặt mua được từ dân chuyên săn cá “khủng” tại Biển Hồ những con cá hô, cá đuối…
Nhờ một “thổ địa”, tôi đã gặp một người gốc Việt tên Đầy, 5 đời sống nhờ nghề lưới cá. Theo lời ông Đầy, làng người Việt đông nhất tại Campuchia nằm ven Biển Hồ (phía bờ Siem Reap, thuộc xã Chong Khơ Nia, huyện cùng tên tỉnh Siem Reap) có khoảng 460 gia đình, hầu hết sống nhờ… cá. Từ rất nhỏ, ông Đầy vẫn nhớ cá nơi đây rất nhiều, “đến mức mình bơi xuồng, cá bị động nhảy lên khoang”. Chính ông đã nhiều lần bắt được cá tra dầu, cá hô, cá đuối “khủng”, mỗi con nặng đến cả trăm ký. Còn cá sửu, cá trèn, đặc biệt là cá linh… mỗi khi nước lũ đổ về, gần như đặc nước, chỉ cần thò tay xuống là bắt được.
Biển Hồ không giống với hồ nào trên thế giới, đó là dung tích thay đổi theo mùa. Mùa khô, từ tháng 11 đến tháng 5, mực nước chỉ còn 1m, diện tích khoảng 10.000km2 nhưng mùa mưa, sông cùng tên hồ lại chảy ngược dòng, tiếp lượng nước khoảng 75 tỉ mét khối từ Mê Kông vào (qua 12 lưu vực sông nhánh), đưa mực nước cao lên khoảng 10m, diện tích Biển Hồ khi đó “nở” lên 80.000km2 làm ngập lụt nhiều đồng ruộng, cây rừng trong khu vực. Những năm lũ lớn, phù sa, nhiều chất dinh dưỡng cùng với cá lớn, cá bột và ấu trùng được tuồn về đây, sinh sôi nảy nở. Khoảng tháng 10, nước lại rút xuống theo sông Tonle Sap ra sông Mê Kông.
Nhờ Biển Hồ mà Campuchia được lượng cá đánh bình quân mỗi năm là 25kg/người – cao gấp khoảng 20 lần lượng trung bình thế giới. Nghề cá (phần lớn tụ họp quanh Biển Hồ) từng tạo ra 10-12% GDP của đất nước Chùa Tháp. Gần nửa dân quốc gia này tùy thuộc vào các nguồn lợi quanh Biển Hồ.
Tôi hỏi về các hố sâu, ông Đầy cho biết, các hố này tập trung nhiều ở khu vực Đông Bắc Biển Hồ. Có hố sâu tới 80, thậm chí 90m. Đây là nơi ẩn nấp rất lý tưởng của các loài “cá trắng” (chiếm đến 35% sản lượng đánh bắt ở hạ lưu Mê Kông), qua mùa khô, chờ đến đầu lũ để đẻ trứng... Ủy hội sông Mê Kông (MRC) từng thống kê, toàn sông Mê Kông có khoảng 484 hố sâu tự nhiên, trong đó tập trung khá nhiều ở Biển Hồ.
Càng nghe tôi càng thấy thích thú về câu chuyện cá tại “túi cá của thế giới”. Tuy nhiên, cũng trong những ngày có mặt tại Biển Hồ, tôi nhận được tin không vui, đó là nhiều điều cơ bản về cá tại đây (và cả sông Mê Kông) đã không còn đúng trong khoảng chục năm trở lại. Hầu hết người dân khi được hỏi chỉ giải thích đơn giản như là một sự mặc định: Ít nước thì ít cá.
Trong khi đó, MRC cho biết, cũng giống như dưới “dòng mẹ” Mê Kông, đàn cá ở Biển Hồ di chuyển tùy theo mùa nước. Nếu như các loài cá trắng ẩn nấp vào các hố sâu thì với đàn cá đen, để sinh sản, chúng di chuyển có khi đến hàng trăm cây số về hướng thượng nguồn. Tuy nhiên, chúng bị cản trở bởi hàng chục đập thủy điện, trong đó có đập thủy điện “khủng” như thể “nút thắt cổ chai” luồng di cư chính của ít nhất 205 loài cá tại hạ lưu sông Mê Kông…
Sau 3 ngày lênh đênh trên Biển Hồ, tôi gặp Senglong Youk - điều phối viên tổ chức Tonle Sap Waterkeepers (TSW). Tham gia quản trị nguồn nước Biển Hồ, Senglong Youk cho biết hồ thiên nhiên này đang đối mặt với rất nhiều thách thức. Vào mùa khô năm 2016, khi độ sâu trung bình của hồ chỉ hơn một mét, một số vùng bảo vệ cá ngay gần bờ trở nên cạn trơ, nước rút nhanh, ảnh hưởng tiêu cực tới việc bảo tồn cá.
“Năm 2015, TSW ghi nhận trên Biển Hồ phía tỉnh Kampong Thom, trong thời điểm nước quá cạn lại 2 lần xuất hiện vòi rồng mang đất đá đến làm chôn vùi cả trăm tấn cá. Cá ở Biển Hồ còn chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu. Năm 2016, chỉ một khu vực thuộc tỉnh Battambang, hơn trăm tấn cá đã chết vì nước dưới hồ nóng lên. Nước cạn cũng khiến loài cá hô gần như tuyệt chủng, nhiều cá khác cũng chết do thiếu ôxy”, Senglong Youk thông tin và nói thêm về đặc tính di cư của cá: “Nên nhớ rằng, cá khác với người. Người có thể sinh đẻ ở bất cứ đâu khi đến kỳ hạn. Còn cá, một khi không tìm được nơi thì chúng không đẻ và sẽ chết”.
Ngót một tuần ngược dòng Mê Kông, tôi nhận ra sự quyết liệt của “cuộc chiến giành nước”. Lưu vực sông Mê Kông rộng khoảng 795.000km2 với tổng dung lượng nước hàng năm vào khoảng 475 tỉ mét khối. Việt Nam dù nằm ở cuối dòng nhưng lại được sở hữu nguồn nước đổ về từ thượng nguồn rất hạn chế, chỉ 11%, trong khi Trung Quốc chiếm 16%, Lào 35%, Thái Lan và Campuchia, mỗi quốc gia 18%... Nhưng con số này cũng không còn đúng nữa khi một thống kê từ Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam (VNMC) năm 2017 cho thấy, riêng tại hạ lưu sông Mêkông đã có 11.420 dự án lấy nước từ dòng Mê Kông đang hoạt động, phục vụ tưới cho khoảng 4 triệu hécta. Thái Lan là nước hiện có nhiều công trình tưới nhất (6.388 công trình), diện tích tưới 1.422.807ha. Đến 2030, diện tích tưới có thể sẽ thêm gần 1 triệu hécta, với gần 1.000 công trình, chủ yếu là chuyển/bơm nước từ sông MêKông. Nhưng đấy chưa phải là con số cuối cùng…