Cấm tuyệt đối nồng độ cồn khi lái xe là cần thiết
Các đại biểu đều cho rằng, việc xây dựng Luật Trật tự, an toàn giao thông (TTATGT) đường bộ là phù hợp với chủ trương, chính sách, chỉ đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn khách quan với mục tiêu bảo đảm tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân khi tham gia giao thông.
Sáng 27/3, tiếp tục chương trình làm việc, hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 5 thảo luận về dự thảo Luật TTATGT đường bộ. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chủ trì phiên họp. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành nội dung họp.
Phát biểu tại hội nghị, các đại biểu đều cho rằng, việc xây dựng Luật TTATGT đường bộ là phù hợp với chủ trương, chính sách, chỉ đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn khách quan với mục tiêu bảo đảm tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân khi tham gia giao thông, xác định cụ thể cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm chính về TTATGT đường bộ, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong việc bảo đảm an ninh, an toàn cho người dân khi tham gia giao thông.
Một trong những vấn đề nhiều đại biểu quan tâm và nhất trí với quy định cấm hành vi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Đại biểu Nguyễn Đại Thắng (đoàn Hưng Yên) cho biết, “Trong phiên thảo luận tổ tại kỳ họp Quốc hội thứ 6, tôi đã đề nghị xem xét cần phải có ngưỡng nồng độ cồn, tuy nhiên, sau khi đánh giá kỹ ưu, nhược điểm, thì tôi đồng tình với quy định cấm tuyệt đối có nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông”.
Đại biểu Nguyễn Đại Thắng cho biết, thời gian qua, lực lượng CSGT đã tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm nồng độ cồn, qua đó, đã góp phần kéo giảm các vụ tai nạn giao thông. "Theo số liệu của cơ quan chức năng, năm 2023, số vụ tai nạn giao thông liên quan đến sử dụng rượu bia giảm 25% số vụ, giảm 50% số người chết, giảm 22% số người bị thương so với cùng kỳ. Với phương châm tính mạng của con người là trên hết, trước hết, thì quy định cấm tuyệt đối nồng độ cồn khi lái xe là cần thiết" – đại biểu nói, đồng thời cho rằng, nếu quy định vi phạm nồng độ cồn đến ngưỡng mới xử lý thì "khi đã ngồi vào bàn uống rượu, bia, chúng ta xác định thế nào là uống trong ngưỡng cho phép?". "Hiện nay, khi lực lượng chức năng tăng cường xử lý vi phạm nồng độ cồn thì người dân đã dần hình thành thói quen "đã uống rượu bia là không lái xe", do đó, quy định cấm tuyệt đối nồng độ cồn khi lái xe sẽ được dư luận đồng tình, ủng hộ” - đại biểu nêu.
Đồng tình với quy định trên, đại biểu Nguyễn Văn Cảnh (đoàn Bình Định) cho rằng, cần tăng nặng xử phạt với mức vi phạm nồng độ cồn cao. Tuy nhiên, đại biểu đề xuất với nồng độ cồn mức thấp, dưới 0,1mg/lít khí thở thì chỉ nên xử phạt hành chính, nhưng không tước giấy phép lái xe. "Tuy nhiên, quy định không tước giấy phép lái xe này không nên áp dụng với người lái xe máy hoạt động dịch vụ chở người và chở hàng" – đại biểu nói.
Cũng nhất trí quan điểm trên, đại biểu Thái Thị An Chung (đoàn Nghệ An) bày tỏ quan điểm đồng tình với dự thảo luật quy định cấm tuyệt đối nồng độ cồn đối với lái xe. “Lý do mà Chính phủ và Uỷ ban Quốc phòng và An ninh đưa ra rất đầy đủ và thuyết phục. Thực tế, quy định này cũng đã được Quốc hội khoá XIV thảo luận, xem xét kỹ lưỡng và đã thống nhất thông qua trong Luật Phòng chống tác hại của rượu bia và được thực hiện từ 1/1/2020. Do ảnh hưởng của dịch COVID -19 nên thời gian thực hiện chưa được nhiều nhưng quá trình triển khai, xử lý quyết liệt tình trạng vi phạm nồng độ cồn đối với người điều khiển phương tiện giao thông thì người dân đã nâng cao hơn ý thức, trách nhiệm về sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông. Điều này không chỉ góp phần đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông mà còn thay đổi thói quen lạm dụng rượu bia trong đời sống hiện nay, không chỉ có ý nghĩa trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài trong nâng cao sức khoẻ của người Việt” – đại biểu nêu.
Theo Điều 9, dự thảo Luật TTATGT đường bộ, các hành vi bị nghiêm cấm gồm:
1. Điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.
2. Điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy hoặc các chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng.
3. Điều khiển xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ không có giấy phép lái xe theo quy định; điều khiển xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ không có giấy phép lái xe hoặc chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ, bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng.
4. Xúc phạm, đe dọa, cản trở, chống đối hoặc không chấp hành hướng dẫn, yêu cầu kiểm tra, kiểm soát, chỉ huy, điều khiển giao thông của người thi hành công vụ về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ.
5. Tổ chức đua xe, đua xe, xúi giục, giúp sức, cổ vũ đua xe trái phép; điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ lạng lách, đánh võng, rú ga liên tục.
6. Dùng tay cầm và sử dụng điện thoại hoặc các thiết bị điện tử khác khi đang điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ.
7. Giao xe cơ giới, xe máy chuyên dùng cho người không đủ điều kiện để điều khiển xe tham gia giao thông đường bộ.
8. Đưa xe cơ giới, xe máy chuyên dùng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, phương tiện tự chế và phương tiện khác chưa được cấp phép tham gia giao thông đường bộ.
9. Sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu xe cơ giới, xe máy chuyên dùng không bảo đảm chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường.
10. Cải tạo các xe ô tô loại khác thành xe ô tô chở người.
11. Tự ý thay đổi kết cấu, hình dáng, bố trí, tổng thành, hệ thống của xe, lắp đặt thêm hoặc tháo bỏ phụ tùng không bảo đảm liên quan đến an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện khi tham gia giao thông so với thiết kế hoặc hồ sơ kỹ thuật đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; tự ý can thiệp làm sai lệch chỉ số trên đồng hồ báo quãng đường đã chạy của xe ô tô; thuê, mượn phụ tùng xe cơ giới chỉ để thực hiện việc kiểm định; tự ý cắt, hàn, tẩy xóa, đục sửa, đóng lại số khung, số động cơ của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng.
12. Tự ý can thiệp, thay đổi phần mềm điều khiển của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng, động cơ đã được đăng ký với cơ quan quản lý, nhằm mục đích gian lận kết quả kiểm tra, thử nghiệm, kiểm định.
13. Chở hàng hóa vượt quá khối lượng toàn bộ, tải trọng trục, kích thước cho phép của xe hoặc vượt quá tải trọng, kích thước giới hạn cho phép của đường bộ khi chưa được cơ quan quản lý cấp phép hoặc không bảo đảm yêu cầu theo quy định của Luật này; chở hàng hóa trên xe có quy định phải chằng buộc nhưng không chằng buộc hoặc chằng buộc không đúng quy định; chở quá số người quy định.
14. Vận chuyển hàng hóa cấm lưu thông, vận chuyển trái phép hoặc không thực hiện đầy đủ các quy định về vận chuyển hàng nguy hiểm, động vật hoang dã.
15. Đe dọa, xúc phạm, tranh giành, lôi kéo hành khách; đe doạ, cưỡng ép hành khách sử dụng dịch vụ ngoài ý muốn; chuyển tải, xuống khách hoặc các hành vi khác nhằm trốn tránh phát hiện xe chở quá tải, quá số người quy định.
16. Lắp đặt, sử dụng thiết bị âm thanh, ánh sáng trên xe cơ giới, xe máy chuyên dùng gây mất trật tự, an toàn giao thông đường bộ.
17. Sản xuất, sử dụng, mua, bán trái phép biển số xe; điều khiển xe cơ giới, xe máy chuyên dùng gắn biển số không do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, gắn biển số không đúng vị trí; bẻ cong, che lấp biển số; làm thay đổi chữ, số, màu sắc, hình dạng, kích thước của biển số xe.
18. Làm gián đoạn hoạt động hoặc làm sai lệch dữ liệu của thiết bị giám sát hành trình, camera lắp trên xe theo quy định của Luật này.
19. Phá hoại, hủy hoại, làm hư hỏng thiết bị điều khiển, giám sát giao thông đường bộ, thiết bị thông minh hỗ trợ chỉ huy, điều khiển giao thông.
20. Đặt, để chướng ngại vật, vật cản khác trái phép trên đường bộ; rải vật sắc nhọn; đổ chất gây trơn trượt trên đường bộ; làm rơi vãi đất đá, hàng hóa, vật liệu, phế thải xây dựng trên đường bộ.
21. Cản trở người, phương tiện tham gia giao thông trên đường bộ; ném gạch, đất, đá, cát hoặc vật thể khác vào người, phương tiện đang tham gia giao thông trên đường bộ.
22. Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, nhũng nhiễu, xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
23. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp của bản thân hoặc người khác để vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ hoặc can thiệp, tác động vào quá trình xử lý vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.
24. Không khai báo, khai báo gian dối hoặc cung cấp thông tin, tài liệu không đúng sự thật để trốn tránh trách nhiệm khi bị phát hiện vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.
25. Bỏ trốn sau khi gây tai nạn giao thông để trốn tránh trách nhiệm; khi có điều kiện mà cố ý không cứu giúp người bị tai nạn giao thông; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của người bị nạn và người gây tai nạn giao thông; lợi dụng việc xảy ra tai nạn giao thông để hành hung, đe dọa, xúi giục, gây sức ép, làm mất trật tự, cản trở việc xử lý tai nạn giao thông.
26. Điều khiển vật thể bay, tàu bay không người lái, phương tiện bay siêu nhẹ hoạt động trong phạm vi khổ giới hạn đường bộ gây cản trở hoặc nguy cơ mất an toàn cho người, phương tiện tham gia giao thông đường bộ, trừ tàu bay không người lái, phương tiện bay siêu nhẹ được cấp phép bay.
27. Hành vi khác vi phạm quy tắc giao thông đường bộ quy định tại Chương II Luật này.