Kiểm toán Nhà nước chỉ ra nhiều bất cập trong quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng
Kiểm toán Nhà nước (KTNN) vừa hoàn thành cuộc kiểm toán chuyên đề Việc quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2020-2022 tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang và TP Hải Phòng. Nhiều vấn đề liên quan đến thu chi quỹ cũng đã được chỉ rõ.
Địa phương “vô tư”chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng mà không báo cáo
Theo kết quả kiểm toán, Hải Dương quyết định chuyển mục đích sử dụng đất, cho thuê toàn bộ diện tích đất rừng, bao gồm cả diện tích đất rừng chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền trồng rừng thay thế (2 dự án). Đây cũng là tỉnh thực hiện chuyển loại rừng đặc dụng (3,9624ha) sang loại rừng sản xuất trước khi chuyển mục đích sử dụng 3,9624ha rừng sản xuất sang mục đích khác. Tuy nhiên, đến thời điểm kết thúc kiểm toán, địa phương chưa báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng diện tích rừng đặc dụng này (do đã chuyển loại rừng đặc dụng thành rừng sản xuất trước khi chuyển mục đích sử dụng rừng).
Tương tự, kết quả kiểm toán việc quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tại Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang và TP Hải Phòng cho thấy: Ngoại trừ Hải Dương, 3/4 địa phương đã thành lập được quỹ. Công tác chỉ đạo kiểm tra, giám sát của UBND cấp tỉnh chưa được quan tâm, thực hiện thường xuyên; việc chấp hành chế độ báo cáo chưa kịp thời, đầy đủ…
KTNN cũng nhấn mạnh, Hải Dương, Bắc Giang chưa ban hành quyết định chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đối với các dự án đã nộp tiền trồng rừng thay thế (Hải Dương 5 dự án, Bắc Giang 35 dự án) theo quy định.
Cũng tại Bắc Giang, Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng đất rừng phòng hộ sang mục đích khác cho Công ty cổ phần Tập đoàn Khoáng sản Á Cường đối với diện tích rừng 2,5ha để khai thác khoáng sản thuộc khu vực cấm khai thác khoáng sản trước khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản.
Từ khi thành lập quỹ đến ngày 31/3/2023, các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang và TP Hải Phòng đã phê duyệt phương án thu tiền trồng rừng thay thế để chuyển đổi 5.470,01ha rừng (rừng tự nhiên 170,09ha, rừng trồng 5.299,92ha) sang mục đích khác, diện tích rừng phải trồng thay thế 5.607,54ha, diện tích rừng đã trồng thay thế 3.341,64ha (bằng 60% so với diện tích phải trồng); diện tích còn phải trồng rừng thay thế 2.274,07ha. Số tiền trồng rừng thay thế (275,318 tỷ đồng) đã quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày chủ dự án nộp tiền nhưng địa phương không bố trí được hoặc chưa bố trí đủ diện tích đất trồng rừng thay thế cần phải chuyển tiền trồng rừng thay thế về quỹ để tổ chức trồng rừng thay thế tại địa phương khác theo quy định…
Tính thiếu đơn giá trong phương án trồng rừng thay thế
Ngoài các bất cập nói trên, kết quả kiểm toán còn chỉ ra, đơn giá trong phương án trồng rừng thay thế được phê duyệt còn tính thiếu một số hạng mục chi phí theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Quảng Ninh giai đoạn từ 30/8/2021 đến hết năm 2022 thiếu công cụ dụng cụ, chi phí dự phòng; Hải Dương thiếu chi phí dự phòng; Bắc Giang thiếu chi phí chung, chi phí khác, chi phí dự phòng; Hải Phòng thiếu chi phí khác, chi phí dự phòng).
Dẫn chứng cụ thể hơn, kết luận điểm tên cụ thể: Tỉnh Quảng Ninh không phê duyệt lại đơn giá thu nộp tiền trồng rừng thay thế khi quy định tính toán có thay đổi. Điều này dẫn đến đơn giá thu tiền trồng rừng thay thế thấp hơn đơn giá giao kế hoạch trồng rừng thay thế.
Quảng Ninh có 814,3ha diện tích rừng chuyển đổi mục đích, tỉnh đã nộp tiền trồng rừng thay thế 121,29 tỷ đồng theo đơn giá đối với từng loại rừng (rừng trồng ngập mặn và rừng trồng trên cạn) tại thời điểm thu nhưng đến nay, chưa được giao kế hoạch trồng rừng thay thế. Đơn giá trồng rừng thay thế đối với 1ha đang cao hơn so với đơn giá tại thời điểm thu. Bên cạnh đó, UBND tỉnh Hải Dương phê duyệt kế hoạch trồng rừng thay thế nhưng xác định diện tích trồng thay thế không đủ so với diện tích rừng đã quyết định chuyển mục đích sử dụng (còn thiếu là 17,37ha); cho phép đơn vị nộp tiền làm nhiều đợt theo đơn giá tính ban đầu mà không xác định đơn giá tại thời điểm nộp tiền theo quy định; xác định dự toán đơn giá cây giống thông mã vĩ cao hơn từ 1,95 đến 2 lần so với đơn giá quy định của UBND tỉnh Hải Dương.
Kết quả kiểm tra chọn mẫu hồ sơ nghiệm thu, thanh toán kinh phí trồng rừng thay thế tại Quảng Ninh, Hải Dương và kiểm tra đối chiếu tại Bắc Giang còn cho thấy hồ sơ ký kết hợp đồng nhân công, cây giống, phân bón còn chưa chặt chẽ. Hồ sơ nghiệm thu thanh toán chưa thể hiện đủ số nhân công cần thiết để thực hiện công việc theo hồ sơ thiết kế kỹ thuật và dự toán, chưa có tài liệu nghiệm thu, bàn giao phân bón, cây giống trước khi thực hiện trồng, chăm sóc rừng. Hồ sơ nghiệm thu thể hiện công việc vận chuyển, bón phân trước thời điểm bàn giao phân bón; trồng cây trước thời điểm giao nhận cây giống…; hồ sơ thiết kế kỹ thuật dự toán chưa đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.
Kết quả kiểm toán nêu trên cho thấy công tác quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt, việc trồng rừng thay thế chưa đảm bảo tính khả thi. Hạn chế này bắt nguồn từ những bất cập trong cơ chế, chính sách hiện hành. Chẳng hạn như tỉnh Quảng Ninh khi xây dựng Đề án triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn tỉnh đã phát sinh trường hợp cần xác định chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với trữ lượng rừng trồng nhưng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chưa có quy định, hướng dẫn xác định hệ số (K1) đối với trữ lượng rừng trồng để làm cơ sở cho việc thực hiện.
Tại tỉnh Bắc Giang, phát sinh trường hợp cần xác định chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với trường hợp xác định trữ lượng rừng trồng (rừng giàu, rừng nghèo) nhưng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chưa có quy định, hướng dẫn xác định hệ số (K1) đối với trữ lượng rừng trồng để làm cơ sở cho việc thực hiện…
Trước hàng loạt bất cập, KTNN đề nghị UBND các tỉnh nói trên kiểm tra, rà soát để khắc phục, xử lý và xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân có liên quan trong công tác tham mưu, trong việc quyết định để xem xét xử lý theo đúng quy định của pháp luật (nếu phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật thì thực hiện xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân có liên quan và chỉ đạo cơ quan chức năng xử lý theo đúng quy định của pháp luật).