Tạo điều kiện thuận lợi trong thực hiện thủ tục nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 9 ngày 24/6/2025 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2025.
Theo ông Nguyễn Thanh Tú, Thứ trưởng Bộ Tư pháp - cơ quan chủ trì xây dựng luật, việc xây dựng luật nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng (Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 19/5/2015; Kết luận số 12-KL/TW ngày 12/8/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác người Việt Nam ở nước ngoài và Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển số quốc gia; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới), tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khi thực hiện thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam. Qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc, thống nhất đất nước và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Nới lỏng điều kiện liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam gồm 3 điều, cụ thể:
Điều 1 là sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi, bổ sung nội dung của 21/44 điều của Luật Quốc tịch Việt Nam); Điều 2 là điều khoản thi hành và Điều 3 là điều khoản chuyển tiếp.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm cụ thể hóa 2 chính sách lớn. Theo đó, chính sách thứ nhất là nới lỏng điều kiện liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài… được nhập quốc tịch Việt Nam, cụ thể như sau:
- Người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ, người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thì không cần đáp ứng điều kiện “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”.
- Người chưa thành niên nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ hoặc người chưa thành niên có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam thì được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1 Điều 19 gồm các điều kiện: Biết tiếng Việt đủ để hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam; đang thường trú ở Việt Nam; thời gian thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam và có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam. Các trường hợp này được nộp hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, nếu cư trú ở nước ngoài.
- Người xin nhập quốc tịch Việt Nam có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại hoặc vợ hoặc chồng hoặc con đẻ là công dân Việt Nam thì được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 2 điều kiện (việc giữ quốc tịch nước ngoài phù hợp với pháp luật của nước đó; không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và được Chủ tịch nước cho phép.
- Người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi xin nhập quốc tịch Việt Nam thì được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1 Điều 19. Đồng thời, các trường hợp này được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 2 điều kiện tương tự trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại hoặc vợ hoặc chồng hoặc con đẻ là công dân Việt Nam và được Chủ tịch nước cho phép.
Nới lỏng điều kiện liên quan đến việc trở lại quốc tịch Việt Nam
Chính sách thứ 2 mà Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam cụ thể hóa là nới lỏng điều kiện liên quan đến việc trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam, cụ thể như sau:
- Bỏ quy định về các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam tại khoản 1 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam. Theo đó, tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì được xem xét giải quyết trở lại quốc tịch Việt Nam.
- Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 2 điều kiện tương tự trường hợp được nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài và được Chủ tịch nước cho phép.
Bên cạnh việc nới lỏng điều kiện nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam, Luật đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác nhằm bảo đảm tính khả thi trong thực hiện 2 chính sách này như quy định nhằm bảo đảm sự thống nhất về việc áp dụng pháp luật đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài; quy định về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong một số trường hợp; quy định bảo đảm quyền chủ quyền quốc gia tuyệt đối đối với vấn đề quốc tịch; thu hồi quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam, trách nhiệm xác minh của Bộ Công an trong trình tự giải quyết hồ sơ quốc tịch, việc ứng dụng công nghệ thông tin…