Nói đang làm rất tốt, tại sao phải tập trung chất vấn về nợ công?
- Quản lý nợ công: Nên giao một hay nhiều đầu mối?
- Đại biểu lo ngại GDP thấp, nợ công cao, lạm dụng bổ nhiệm người nhà
- Cân nhắc khi vay vốn nước ngoài vì áp lực nợ công
- Chi lớn, vay lớn trong khi thu vào thấp nên nợ công tăng nhanh
Việt Nam “mất quyền lợi” vì ký kết hiệp định khung ODA quá chi tiết
Không chỉ các ĐBQH có quan điểm khác nhau về việc giao 1 hay 3 đầu mối quản lý nợ công, mà chính cơ quan soạn thảo cũng chưa thống nhất quan điểm này. Là cơ quan được Chính phủ giao chủ trì soạn thảo Luật Quản lý nợ công, Bộ Tài chính đã viết trong tờ trình gửi đến Quốc hội giao 3 đầu mối; tuy nhiên, giải trình trước Quốc hội sáng 16-6, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã thẳng thắn nêu một cách tiếp cận khác.
Nói về đại diện của Việt Nam tại Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đã 40 năm nay là Ngân hàng Nhà nước – như ĐB Nguyễn Mạnh Cường đã phát biểu trước đó, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng chia sẻ: Kinh nghiệm quốc tế, tại WB có 185 thành viên, trong đó có 118 nước Bộ trưởng Bộ Tài chính nắm vai trò thống đốc; 6 nước Thống đốc Ngân hàng Trung ương nắm vai trò này, trong đó có Việt Nam và Lào; 61 nước do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, thương mại và các bộ khác.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng |
Tại ADB có 67 thành viên, trong đó 48 Bộ trưởng Bộ Tài chính đóng vai trò thống đốc; 5 nước do Thống đốc Ngân hàng Trung ương đóng vai trò thống đốc – trong đó có Việt Nam và 13 nước là do cơ quan khác đại diện.
“Đang hội nhập chúng ta phải tính toán, một mình một kiểu chúng tôi e là cũng đến lúc phải thay đổi thôi, vấn đề là chọn thay đổi vào thời điểm nào chúng ta cũng phải rút ra” – Bộ trưởng Bộ Tài chính nêu quan điểm.
Ông Đinh Tiến Dũng cũng nêu một bức xúc khiến Việt Nam “mất quyền lợi” là đàm phán các hiệp định khung về ODA (hiện giao cho Bộ Kế hoạch & Đầu tư). “Theo quan điểm của tôi, hiệp định khung như cam kết chính trị giữa các tổ chức hoặc các quốc gia với nhau. Đây chúng ta đưa cả các điều kiện vay vào, cả thời hạn, lãi suất, kể cả ưu đãi thuế má. Sau đó, Bộ Tài chính đi thương thảo hiệp định chính thức, không tài nào thương thảo khác được”.
“Người vay và người cho vay phải bình đẳng với nhau về quyền lợi, trách nhiệm. Có khoản họ cam kết cho vay, nhưng khi thương thảo không đạt điều kiện của Việt Nam, chúng ta cũng không vay đấy chứ? Ví dụ lãi suất quá cao, ví dụ đưa ra điều kiện chỉ định thầu... chứ làm gì chúng ta phải theo điều kiện ngay từ đầu như thế. Đơn cử, Nhật Bản cho ta vay theo hiệp định khung là 1 tỷ USD, thương thảo cụ thể mới biết cho từng dự án điều kiện thế nào, đây ta đưa hết vào hiệp định khung, ký 1 cái là đến hiệp định cụ thể không thể nào thương thảo được, nên mất quyền lợi thôi. Chưa kể sau đó còn sử dụng không hiệu quả...” – ông Đinh Tiến Dũng nêu thực trạng.
“Hiện kể cả vay ODA và vay trái phiếu Chính phủ đều là bội chi ngân sách hết – Theo Luật Ngân sách Nhà nước 2015 có hiệu lực từ 1/1/2017. Chúng ta phân định nguồn vốn để thương thảo, đi vay, nhưng trong quản lý, đúng ra phải là quản lý như Ngân sách Nhà nước trong sử dụng, trong chi tiêu. Chúng ta có rất nhiều cơ chế quản lý khác nhau, từ đầu vào, đi vay đến đầu ra - sử dụng, chưa nói chức năng - nhiệm vụ (chia 3 bộ quản lý như hiện nay - PV), chúng tôi cho là quá bất cập, rất nhiều rủi ro, nên khả năng kém hiệu quả rất lớn. Cụ thể nữa là khi xảy ra vấn đề gì thì rất khó quy trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm các bộ, ngành”.
“Các đồng chí nói không vấn đề gì, hiện đang làm tốt. Tốt tại sao chất vấn Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư hôm qua lại xoay quanh vấn đề đầu tư công, quanh vấn đề sử dụng vốn. Chúng tôi rất trăn trở”.
“Quan điểm của Bộ Tài chính khi trình Chính phủ là một đầu mối, mà Chính phủ thống nhất thì chúng tôi chấp hành Chính phủ. Về bất cập chúng tôi cũng đã báo cáo, thông lệ quốc tế cũng đã báo cáo. Có thể chúng ta không làm được ngay, cần có lộ trình để không ảnh hưởng, tác động lớn đến quản lý nợ cộng. Nhưng nếu làm được ngay cũng là tốt. Thấy bất cập mà không sửa cũng là dở. Là quá dở!” – Bộ trưởng Bộ Tài chính nhấn mạnh.
Về vấn đề giao cho Bộ nào làm đầu mối, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết: “Chúng tôi không nói là giao Bộ Tà chính, về đâu cũng được, có thể là Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, thậm chí Văn phòng Chính phủ cũng được, nhưng kinh nghiệm tổng kết các nước phần lớn là giao Bộ Tài chính. Nói ra thì rất khó, nhưng vì chúng ta tranh luận thì tôi cũng nói cho rõ. Từ nhận thức, có chủ trương rồi thì phải hành động”.
Các khoản vay của DNNN sẽ được quản lý bằng một luật khác
Khẳng định tinh thần chung khi xây dựng Luật này là hoàn thiện thể chế, đặc biệt là chính sách, công cụ quản lý nợ công; điều chỉnh phạm vi nợ công phù hợp với thông lệ quốc tế, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng giải trình thêm về phạm vi của nợ công, như quan ngại của các ĐB.
Về phạm vi nợ công, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết: Theo thông lệ quốc tế, khoản nợ này bao gồm: nợ trực tiếp của Chính phủ, cả trung ương và địa phương và nợ dự phòng. Nợ trực tiếp là các khoản nợ Chính phủ là chủ thể vay và chịu trách nhiệm trả từ ngân sách Nhà nước. Nợ dự phòng là nợ Chính phủ không phải chủ thể đi vay, nhưng cam kết trả nợ trong trường hợp chủ thể đi vay mất khả năng thanh toán (các khoản bảo lãnh vay hoặc cho vay lại). “DNNN là Công ty TNHH một thành viên, hoạt động bình đẳng với các DN khác theo Luật Doanh nghiệp, nên nợ tự vay tự trả của các DN này quản lý ở luật khác - như Luật quản lý vốn nhà nước đầu tư, kinh doanh ở DN như ĐB Trần Hoàng Ngân nói” – Bộ trưởng giải thích.
“Theo hướng dẫn của WB, nợ tự vay tự trả của DNNN chỉ tính vào nợ công nếu thỏa mãn đồng thời 3 điều kiện: Chính phủ sở hữu 50% vốn của DN; Thu chi của DNNN được kết cấu trong dự toán ngân sách hàng năm; Chính phủ cam kết trả nợ thay trong trường hợp DN mất khả năng trả nợ. Qua khảo sát 40 nước và nhóm nước, hầu hết đều không tính khoản này vào nợ công, chỉ có 3 nước tính vào nhưng chỉ tính với DN hoạt động công ích và chi tiêu được tính trong kết cấu của dự toán ngân sách hàng năm” – Bộ trưởng thông tin thêm.
Nợ của Ngân hàng Nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ cũng không thuộc nợ công – theo Bộ trưởng Bộ Tài chính, vì Ngân hàng Nhà nước thực hiện vai trò là Ngân hàng Trung ương: thực thi chính sách tiền tệ, đảm bảo giá trị đồng tiền, cán cân thanh toán, trong đó có hoạt động phát hành các công cụ nợ ngắn hạn dưới 12 tháng - bản chất là dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở để điều hòa cung ứng tiền tệ theo Điều 10 của Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010.
“Theo thông lệ quốc tế, phần lớn các nước, Ngân hàng Trung ương là độc lập, Thống đốc Ngân hàng Trung ương không phải thành viên Chính phủ. Đối với Việt Nam, bên cạnh vai trò Ngân hàng Trung ương như quốc tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối. Tuy nhiên, với vai trò quản lý Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước không có chức năng huy động vốn cho Chính phủ, nên hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không thuộc phạm vi của nợ công” – người đứng đầu cơ quan chủ trì soạn thảo lý giải.
Nợ của các đơn vị sự nghiệp công lập như bệnh viện, trường học, thì các khoản Chính phủ vay về cho cho vay lại đã được tính vào nợ của Chính phủ. Các khoản vay tự vay, tự trả của các đơn vị này áp dụng như với DNNN.
Về 2 Ngân hàng Chính sách (Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam – PV), Chính phủ bảo lãnh cho phát hành trái phiếu, việc thực hiện nhiệm vụ cũng theo Nghị quyết của Chính phủ, đã được tính vào nợ công.
Về bảo lãnh Chính phủ và vay về cho vay lại, ông Đinh Tiến Dũng hứa trước Quốc hội sẽ tiếp tục rà soát, “nhưng tinh thần là siết chặt. 2 năm nay chúng ta không cấp bảo lãnh mới, chỉ giải ngân những khoản đã bảo lãnh trước kia. Với 2 ngân hàng chính sách, cũng sẽ chỉ bảo lãnh ở mức tối thiểu, ngang bằng mức đảm bảo trả nợ trong năm”.
Phó Chủ tịch Phùng Quốc Hiển cũng đã nhận định Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng rất thẳng thắn nói lên những bất cập và đề nghị Bộ tiếp thu góp ý của các ĐB để hoàn thiện dự thảo luật, trình Quốc hội cho ý kiến tiếp ở kỳ họp sau.