Bài cuối: Khẩn cấp xây dựng hệ thống quản trị rủi ro hiện đại
Mưa cực đoan, lũ vượt chuẩn, biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt cho thấy giới hạn hệ thống hồ chứa và phương thức ứng phó. Vấn đề đặt ra không chỉ vận hành hồ chứa, mà là hệ thống quản trị rủi ro thiên tai hiện đại. Trong đó, cảnh báo sớm, công nghệ và quy hoạch liên vùng đóng vai trò then chốt.
Cần "lá chắn dữ liệu"
Ông Trần Hoài Trang, Phó Cục trưởng Cục Điện lực, Bộ Công Thương cho rằng, khi đánh giá tác động lũ, cần tách bạch hai yếu tố: Về phía công trình, phải xem xét công trình có được vận hành tuân thủ quy trình đã được phê duyệt hay không? Khả năng cắt lũ của hồ chứa so với thiết kế? Quy mô dung tích hồ có đủ để cắt lũ hay chỉ làm chậm dòng chảy? Ở Việt Nam, những hồ chứa thủy điện có dung tích lớn như Sơn La, Hòa Bình trên sông Đà hoặc hồ thủy điện Tuyên Quang trên sông Gâm có khả năng cắt lũ đáng kể cho phía hạ du. Tuy nhiên, các hồ chứa thủy điện nhỏ trên sông nhánh có dung tích nhỏ thì gần như khi có lũ lớn về vượt tần suất thiết kế thì phải xả bấy nhiêu, công trình chỉ góp phần làm chậm dòng chảy xả lũ về hạ du trong thời gian rất ngắn.
Về phía tự nhiên, lũ phụ thuộc vào lượng mưa và đặc điểm địa hình của lưu vực. Theo đó, hầu như diện tích lãnh thổ Việt Nam lại "hứng trọn" nước từ nhiều hướng: Tây Bắc - Trung Quốc, Tây - Lào, Tây Nam - Campuchia trước khi đổ ra biển.
Theo Phó Cục trưởng Trần Hoài Trang, khu vực miền Trung và Nam Trung Bộ có địa hình miền núi dốc, thung lũng hẹp với đặc điểm chênh cao hàng nghìn mét từ sườn núi phía Tây xuống biển, nhưng chiều dài dòng chảy chỉ vài chục kilômét khiến mức độ tập trung dòng chảy lớn, lũ đổ về cực nhanh. Trong điều kiện hệ thống sông ngòi ngắn, độ dốc lớn theo hướng hẹp chiều ngang và các đồng bằng nhỏ bị chia cắt bởi các dãy núi cao không thuận lợi để nghiên cứu xây dựng được nhiều hồ thuỷ điện có dung tích lớn phục vụ điều tiết lũ.
Với hệ thống đường giao thông chạy dọc bờ biển (quốc lộ 1A, đường sắt) vô tình tạo thành "tuyến đê" chắn nước, trong khi hệ thống cống thoát nước chưa đủ khả năng tháo, lâu ngày xuống cấp. Ngoài ra, một số khu vực là hành lang thoát lũ phía hạ du các sông lớn không được quản lý chặt chẽ, bị lấn chiếm để xây dựng các công trình dân dụng dẫn đến làm giảm khả năng thoát lũ, gây ứ đọng và ngập úng kéo dài. Thực tế cho thấy, nhiều khu vực kể cả miền núi mặc dù không có các công trình thủy điện nhưng theo địa hình không có đường thoát nước, các suối nhỏ bị đất đá chặn lại, địa hình "miệng phễu", chỉ cần mưa lớn là ngập hàng tuần.
Năm 2025 lũ lớn xảy ra đồng thời trên 13 lưu vực từ Bắc vào Trung Bộ, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, bộc lộ nhiều hạn chế trong quy hoạch, dự báo và vận hành hồ chứa. Theo các chuyên gia, giải pháp không phải loại bỏ thủy điện nhỏ mà là nâng cấp toàn diện hệ thống quản trị rủi ro thiên tai. Trọng tâm cần tập trung gồm: Hoàn thiện quy hoạch liên vùng, nâng tiêu chuẩn thiết kế và vận hành hồ thủy điện - thủy lợi; tăng năng lực dự báo mưa/lũ theo thời gian thực, xây dựng bản đồ ngập lụt cập nhật, công khai dữ liệu cho các địa phương; ứng dụng mạnh công nghệ như GIS, ảnh vệ tinh, mô hình ngập lụt hiện đại để hỗ trợ ra quyết định; bổ sung nhân lực chuyên môn cao và chuẩn hóa quy trình phối hợp liên ngành; kiểm soát phá rừng, khắc phục các điểm nghẽn thoát lũ, xử lý nghiêm vi phạm trong vận hành hồ chứa.
"Trận lũ năm 2025 cho thấy đây không phải hiện tượng bất thường đơn lẻ, mà là dấu hiệu của một "trạng thái khí hậu mới", cực đoan hơn, khó dự báo hơn và vượt ngoài khả năng thiết kế của nhiều công trình hiện hữu. Bối cảnh này đòi hỏi Việt Nam phải nhanh chóng đổi mới hệ thống dự báo, cập nhật quy trình vận hành liên hồ chứa và nâng cấp hạ tầng chống chịu khí hậu nhằm đảm bảo an toàn cho hạ du", TS. Nguyễn Huy Hoạch, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhận định.
Thực tiễn quốc tế cho thấy, thủy điện có thể trở thành "tấm lá chắn" giảm thiệt hại nếu được vận hành linh hoạt, minh bạch và được hỗ trợ bởi dữ liệu dự báo chính xác. Khi hệ thống dự báo tốt hơn, quy hoạch đồng bộ hơn và trách nhiệm được siết chặt, thiệt hại từ lũ cực đoan mới có thể giảm bớt trong bối cảnh khí hậu ngày càng khắc nghiệt.
Tương tự, ông Trịnh Văn Thuận, Phó Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp, Bộ Công Thương cũng cho rằng, hồ chứa nước được xây dựng để điều tiết dòng chảy tự nhiên để đảm bảo đủ lượng nước phục vụ phát điện và phục vụ sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt của nhân dân trong mùa cạn. Hồ lớn có thể giữ nhiều nước mưa hơn, hồ nhỏ chỉ hạn chế. Tuy nhiên, ở miền Trung - Nam Trung Bộ, địa hình hẹp, dốc và sông ngắn khiến việc xây hồ chứa lớn gần như không khả thi. Các dòng sông Tây Bắc - Đông Nam đổ ra biển với lưu vực nhỏ và lòng sông hẹp, nên lượng mưa tập trung vào các đồng bằng thấp, gây lũ lớn mà hồ chứa nhỏ khó ứng phó.
Ví dụ, trận lũ vừa qua ở Đắk Lắk - Gia Lai - Khánh Hòa, tổng lượng lũ về hồ Sông Ba Hạ lên tới 2.797,56 triệu m³, nhưng hồ chứa sông Ba Hạ dung tích chỉ 350 triệu m3 khi lũ đạt đỉnh vào 18h00 ngày 19/11/2025 là 16.160 m³/s thì lưu lượng xả lớn nhất về hạ du là 16.100 m3/s, trong đó hồ đã cắt giảm cho hạ du 148,9 triệu m³, chỉ cắt giảm được 5,32% cho hạ du. Như vậy, các hồ khu vực này chủ yếu phục vụ phát điện và cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, còn khả năng phòng chống lũ chỉ giới hạn với trận lũ nhỏ. "Chúng ta cần đánh giá khách quan sự việc thủy điện Ba Hạ phải xả lượng nước lớn xuống hạ du trong ngày 19/11 trong quá trình điều tiết hồ chứa để thấy được vai trò hỗ trợ cắt, giảm lũ cho hạ du của hồ chứa", ông Thuận nói.
Đòi hỏi một loạt giải pháp đồng bộ và quyết liệt
Cũng theo ông Trịnh Văn Thuận, với đặc thù địa hình dốc và điều kiện tự nhiên phức tạp của khu vực, việc nâng cao khả năng cắt giảm lũ cho hạ du trong những trận mưa lớn như vừa qua đòi hỏi một loạt giải pháp đồng bộ và quyết liệt. Trước hết, cần cải tạo và nâng cấp hệ thống cống thoát nước trên các tuyến giao thông chạy dọc trục Bắc - Nam, bảo đảm dòng chảy từ sườn núi phía Tây có đường thoát lũ thông suốt.
Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong chỉ đạo vận hành hồ chứa phải được tăng cường, đặc biệt là việc điều tiết sớm ở cả hồ thủy điện và hồ thủy lợi để chủ động dành dung tích đón lũ. Đây sẽ là nội dung then chốt cần được đưa vào quá trình sửa đổi, bổ sung các quy trình vận hành liên hồ chứa hiện nay.
Song song với đó, các công trình vi phạm hành lang thoát lũ phải được xử lý triệt để, kết hợp với các biện pháp quản lý rủi ro thích ứng biến đổi khí hậu. Những giải pháp này, nếu được triển khai đồng bộ, sẽ giúp giảm đáng kể áp lực lũ cho các vùng hạ du.
Để vận hành tối ưu các hệ thống thủy điện bậc thang trên lưu vực sông, TS. Nguyễn Huy Hoạch cho rằng, Việt Nam cần một bộ giải pháp tổng thể với sự tham gia đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Trong đó, dữ liệu và dự báo thủy văn đóng vai trò then chốt. Cần xây dựng một hệ thống dự báo hiện đại tích hợp mô hình khí tượng, thủy văn và thủy lực, có khả năng cập nhật theo thời gian thực.
Việc đầu tư radar thời tiết cho các khu vực miền Trung và Tây Nguyên là rất quan trọng, vì đây là nơi thường xuyên bị ảnh hưởng bởi mưa cực đoan. Đồng thời, mạng lưới quan trắc tự động tại các hồ, bao gồm cảm biến mực nước, lưu lượng và camera giám sát, cần được trang bị và kết nối vào hệ thống dữ liệu quốc gia.
Điều chỉnh quy trình vận hành theo hướng linh hoạt. Quy trình vận hành liên hồ chứa cần được xây dựng theo hướng mở, cho phép điều chỉnh mực nước mục tiêu tùy theo trạng thái thời tiết. Khi dự báo có mưa lớn, hồ chứa được phép giảm nhanh mực nước trước lũ. Việc phân loại hồ theo chức năng cũng rất quan trọng: Những hồ có dung tích lớn đóng vai trò phòng lũ phải được ưu tiên; trong khi những hồ nhỏ cần có chế độ vận hành riêng phù hợp với khả năng điều tiết hạn chế.
Nâng cấp công trình hồ chứa và tăng cường dung tích phòng lũ. Một số hồ lớn có tiềm năng tăng dung tích phòng lũ nên được xem xét nâng cấp, như Hàm Thuận, Đồng Nai 3, Sê San 4. Đồng thời, các địa phương miền Trung cần nghiên cứu xây dựng các hồ chứa phòng lũ chuyên dụng để giảm áp lực cho các hồ thủy điện vốn có dung tích nhỏ và chủ yếu làm nhiệm vụ phát điện.
Hệ thống cảnh báo sớm và truyền thông cộng đồng. Cần xây dựng hệ thống cảnh báo đa tầng, thông qua SMS, ứng dụng di động, hệ thống loa thông minh và camera giám sát. Việc thông tin đến người dân phải đảm bảo nhanh, chính xác và dễ hiểu. Chính quyền địa phương cần phối hợp chặt chẽ với đơn vị vận hành hồ và các tổ chức xã hội trong công tác tuyên truyền. Cơ chế tài chính và phân chia trách nhiệm.
"Nhà nước cần đầu tư hạ tầng dự báo, bản đồ ngập lụt và hệ thống radar thời tiết. Doanh nghiệp thủy điện phải có trách nhiệm trang bị đầy đủ các thiết bị quan trắc, đảm bảo minh bạch dữ liệu vận hành và tham gia vào công tác đào tạo, diễn tập phòng chống thiên tai. Người dân hạ du cần chủ động cập nhật thông tin, tham gia giám sát cộng đồng và phối hợp với chính quyền khi có yêu cầu", TS. Nguyễn Huy Hoạch cho hay.