Nhà văn Mạc Phi du xuân ở Matxcơva
Có lẽ không chỉ với người Việt Nam mà với các dân tộc khác cũng vậy: Ngày lễ tết dân tộc mà phải sống ở một miền đất lạ, xa Tổ quốc, quê hương thì dù có đầy đủ, vui vẻ đến đâu cũng vẫn cảm thấy lòng mình trống trải, thiếu một cái gì đó thân thương của gốc rễ, cội nguồn.
Với chúng tôi - những sinh viên nước ngoài, đang sống chung trong một thành “ốp” giữa những người xa lạ, nhiều màu da, dân tộc khác nhau, lại càng như vậy. Mặc dù đến tết năm ấy 1967 - đã là cái tết thứ tư, tôi ăn tết ở Mátxcơva rồi. Nhưng vẫn không thể nào quen được: vẫn nhớ nhà, nhớ quê hương và nỗi khao khát nhất là có được một tín hiệu từ Việt
Như trong một bài viết trước đây tôi đã nói, chẳng phải tôi “bằng vai phải lứa” hay có gì đặc biệt để các nhà văn hạ cố tới thăm mà vì trước khi đi học điện ảnh ở Liên Xô, tôi là hội viên “Chi hội Văn học nghệ thuật” Hải Phòng do bác Nguyên Hồng làm chủ tịch. Tôi lại đang được bác Hồng cho phép chuyển thể tiểu thuyết “Bỉ vỏ” của bác đã được dịch sang tiếng Nga (“Barốpka” - “Con ăn cắp”) để làm bài tập cho khóa học biên kịch điện ảnh của tôi ở trường.
Với nhà văn Nguyên Hồng, Mátxcơva chẳng có gì xa lạ, vì bác đã qua lại nhiều lần, nhất là khi tiểu thuyết “Bỉ vỏ” của bác được dịch sang tiếng Nga mấy năm trước đó. Nhưng nhà văn Mạc Phi thì hình như lần đầu tiên đến Mátxcơva?
Trở lại Mátxcơva lần này, bác Hồng cũng phải dành khá nhiều thời gian cho việc thăm hỏi một số bạn bè Nga ở Hội Nhà văn Liên Xô và một vài mối quan hệ khác. Bác bảo tôi:
- Tôi phải đi một số nơi, giao ông Mạc Phi cho cậu. Ông ấy mê Mátxcơva lắm rồi đấy! Chịu khó đưa ông ấy đi một số nơi, càng nhiều càng tốt!
Thấy bác Mạc Phi có vẻ ít quan tâm tới việc mua sắm quà cáp, tôi ướm hỏi:
- Còn ít bữa nữa về nước rồi, bác đã mua được quà cáp gì chưa?
Bác Mạc Phi cười rất tự nhiên:
- Mình chẳng cần mua gì thêm. Một số thứ cần thì đã mua ở Tiệp rồi! Cái mình cần bây giờ là đi tham quan Mátxcơva!
Rồi ông nói như tâm sự:
- Quà cáp thì biết thế nào cho đủ! Chẳng mua ở đây thì về nước cũng chẳng thiếu gì hàng Liên Xô. Còn việc tham quan danh lam thắng cảnh ở nước ngoài thì có lẽ mình cũng ít có dịp được đi như thế này!
- Sao thế ạ? - Tôi hơi ngạc nhiên hỏi - Các nhà văn, nhà thơ Việt
Giọng bác Phi vẫn nhẹ nhàng, chậm rãi:
- Tôi ở tận Lai Châu, ít có dịp về Hà Nội lắm! Cứ tưởng chết già ở trên đó rồi - Bác Phi cười rất hồn nhiên - nào ngờ lần này Hội (Hội Nhà văn Việt
Quả thật, nhà văn Mạc Phi rất say sưa trong việc quan sát cảnh vật, con người ở một miền đất lạ. Tôi hiểu điều đó ở ông và mạnh dạn đề xuất một việc mà cứ sợ rằng ông sẽ phải đắn đo ngần ngại:
- Bác Phi có thích đi thăm mộ Lép Tônxtôi ở
Nhà văn sáng mắt lên, nhìn tôi:
- Được thế thì còn gì bằng nữa! Tôi rất thích, nhưng có xa lắm không?
ở
Bác Phi mừng cuống quít, đứng dậy, vỗ vào ví tiền của mình, bảo tôi:
- Thế thì hay lắm! Anh cứ đưa tôi đi, mọi phí tổn đã có khoản nhuận bút “Rừng động” đây rồi!
Tôi cười bảo bác:
- Nhuận bút “Rừng động” để bác mang về cho bác gái. Còn từ đây tới đó chẳng tốn kém gì, bác để tôi lo, chỉ mất vài ba rúp tiền tàu Êlếctơríchka thôi! (Một loại tàu hỏa chạy bằng điện).
Sáng sớm hôm sau, như lời hẹn, tôi đến nhà khách của sứ quán đón bác Mạc Phi để ra ga Mátxcơva đi Tula. Không biết có phải thiên nhiên ở đây muốn tỏ lòng mến khách hay hương hồn cụ Tônxtôi đã xui rủi phù hộ mà thời tiết Mátxcơva hôm ấy lại đẹp và “ấm áp” đến thế, chỉ trên dưới 20 độ âm. Trời hửng nắng, sáng sủa. Toa tàu chúng tôi ngồi rất thưa khách, rộng rãi và thoải mái cho tầm nhìn phía trước và cả hai bên đường tàu. Mặc dù tàu chạy với tốc độ gần 100km/giờ nhưng chúng tôi vẫn có thể quan sát được mọi thứ dễ dàng, vì tầm nhìn rất rộng.
Có một đặc điểm của vùng ven Mátxcơva là rất nhiều rừng bạch dương, rừng tự nhiên lâu đời thực sự chứ không phải do người mới trồng. Mùa này các cánh rừng đều trơ trụi lá, tất cả phủ một màu tuyết trắng mênh mông xa tít. Chỉ thỉnh thoảng có những đám đen lố nhố là đám trẻ con trượt tuyết hoặc những xe trượt tuyết lớn do ngựa kéo của cư dân quanh vùng chở gỗ hoặc hàng hóa cần cho nhu cầu sống hằng ngày.
Cư dân hai bên đường tàu là những thị trấn nhỏ, nhà cửa kề nhau, xây theo kiểu hiện đại. Chỉ thỉnh thoảng còn lại vài ba ngôi nhà cổ kiểu Nga, làm toàn bằng cây gỗ bạch dương tròn, xếp khít vào nhau quây thành bốn bức tường. Mái nhà cũng bằng gỗ, một ống khói nhô lên, liên tục nhả những làn khói lam xanh, thanh bình ấm áp giữa không gian giá lạnh của một vùng trắng đất, trắng trời.--PageBreak--
Trên đường đi, khoảng dăm bảy cây số lại có một ga tàu. Gọi là “ga” nhưng không có nhà và cũng không có người coi, điều khiển, mà chỉ là một bệ bêtông cao, chạy dọc theo chiều dài con tàu, để khi tàu đỗ, giúp cho người lên xuống thuận lợi, dễ dàng.
Đến ga nào cũng thấy nhà văn Mạc Phi quan sát rất kỹ mấy bà già Nga, người thì cầm một “cây thuốn” bằng nhựa, dưới có gắn một đinh sắt nhọn, đi lại gần chỗ đông người, lia mắt tìm những đầu thuốc lá của mọi người vứt trên tuyết, trên đường đi, chục bỏ vào một xô nhỏ xách bên người, người lại xách một xô gì khá nặng, vừa đi vừa rắc những hạt gì nhỏ như cát trên “sân ga”, trên các lối đi của hành khách, bác Phi hỏi tôi:
- Mấy bà già Nga đang làm gì mà hầu như ở ga nào cũng thấy?
Tôi biết, công việc của mấy bà già Nga thể nào cũng gây sự chú ý cho nhà văn nên đã sắp sẵn câu trả lời:
- Các bà già đi rắc cát vào những chỗ có băng để người đi khỏi trơn, ngã. Và đi nhặt những mẩu thuốc lá của những người thiếu ý thức, để giữ sạch cho mọi người.
- Sao lại có băng giữa một rừng tuyết trắng thế này?
- Đó là những nơi tuyết mỏng, người đi lại nhiều bị tan thành nước, đêm đến, nhiệt độ hạ, không có người đi lại nên đóng thành băng.
Nhà văn gật gù, ngẫm nghĩ một lát rồi ngửng lên hỏi tôi:
- Công việc vất vả, rét mướt này sao không giao cho lớp trẻ, lại bắt các cụ làm?
- Có ai bắt các cụ đâu, các cụ tự nguyện cả đấy! Hoàn toàn không có ai trả lương cho các cụ! Chỉ có một mục đích duy nhất là vì con người, vì vẻ đẹp của xã hội mà các cụ làm! Trong số các cụ có những người đã từng trực tiếp chiến đấu hoặc nhiều mất mát trong chiến tranh chống phát xít.
Bác Phi lặng người đi một hồi lâu, tôi đọc được trên gương mặt bác sự bồi hồi, xúc động và cả sự chia sẻ, xót thương… khi bác nhìn tôi nói:
- Chỉ có bản tính Nga, chỉ có những người đã mất mát quá nhiều trong chiến tranh mới có được tình yêu con người đến thế!
Sau gần hai giờ hành trình, chúng tôi đã đến được thành phố
Nhà văn Mạc Phi bỏ mũ, chỉnh đốn lại trang phục, kính cẩn đặt bó hoa tươi trước mộ rồi quay ra bảo tôi lấy lửa đốt bó hương mà chúng tôi đã mang theo. Vừa cắm mấy nén hương lên mộ, bác Phi đã giật mình, ngỡ ngàng ghé tai tôi nói như một tin vui bất ngờ:
- Trên mộ cũng có cả những chân hương, chứng tỏ chúng ta không phải là người đầu tiên thắp hương viếng mộ Tônxtôi, không biết ngoài Việt
Chúng tôi lưu lại thành phố
- Sắp tới là ga Tauza, cũng là tên một khu rừng rất đẹp ở đây, bác có ghé thăm không?
Nhà văn nói như reo lên:
- Thăm chứ! Sắp tới chưa? - Ông ngó nhìn trời - Còn sớm lắm.
Rừng bạch dương mùa đông vẫn có vẻ đẹp riêng của nó. Những con đường mòn chằng chịt trong rừng phủ đầy tuyết trắng nhưng vẫn nhận ra đó là đường. Trên các cành bạch dương không còn màu xanh của lá nhưng thay vào đó là những loài chim mà nhiều nhất là quạ. Các “chuồng chim” xinh xắn, làm bằng gỗ, khoét những lỗ thật tròn, được treo rải rác trên các cành bạch dương, có cả những đôi chim đang thập thò trong đó… Nhà văn Mạc Phi chăm chú quan sát rồi hỏi tôi:
- Những chuồng chim kia do ai làm? Và sao làm nhiều thế?
- Do những người yêu thiên nhiên bỏ công sức ra làm, để mùa hè có chỗ cho chim đẻ và mùa đông để chúng trú đông.
Lại một lần nữa nhà văn lặng người đi suy ngẫm, một hồi lâu mới nhìn tôi gật gù, chia sẻ:
- Quả thật, nếu con người biết yêu thiên nhiên thì đến muông thú cũng không phụ bạc con người, cũng biết đem lại sức sống và vẻ đẹp cho con người!
Hôm nay ngồi viết lại những dòng này, tôi cứ nghĩ mãi không biết có phải do cái “duyên” không mặn mà, không xứng đáng được lưu giữ những kỷ niệm về nhà văn Mạc Phi mà sự tình lại diễn ra như vậy: Hôm tiễn bác Hồng và bác Phi về nước, tôi mới gặng hỏi bác Phi:
- Có còn thứ gì bác định mua ở Mátxcơva mà chưa mua được không?
Bác Phi đắn đo mãi mới bảo:
- Tôi định mua một “túi chườm nóng” dùng cho mình mà quên bẵng mất.
Khi về nước, chúng tôi phải đi máy bay, mọi thứ hành lý nặng phải gửi tàu biển về cảng Hải Phòng. Tiểu thuyết “Rừng động” của bác Phi tặng tôi, “túi chườm nóng” tôi mua tặng bác và bao nhiêu ảnh chụp với bác, cùng sách vở đồ đạc của tôi nằm trong một kiện hàng mà cảng Hải Phòng báo là thất lạc do vụ cháy cảng hồi ấy. Chỉ còn sót lại mấy chiếc ảnh mang theo người, trong đó có chiếc ảnh in ở bài báo hôm nay